NÂNG CAO CHÂT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, HỔ TRỢ NGƯỜI NỘP THUẾ TẠI CÁC CHI CỤC THUẾ.
Cơ quan thuế là cơ quan hành chính nhà nước, vừa thực hiện chức năng kiểm tra tuân thủ vừa cung cấp dịch vụ công cho người nộp thuế (NNT). Từ khi chuyển sang cơ chế tự khai – tự nộp, vai trò của công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT ngày càng được chú trọng. Những yếu tố nào tác động đến chất lượng cung cấp dịch vụ của chi cục thuế? NNT cảm thấy hài lòng với dịch vụ nhận được chưa? Bài viết dưới đây đánh giá về chất lượng dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ về thuế tại chi cục thuế ở nước ta hiện nay. Thông qua đó, nhận định những yếu tố tác động đến chất lượng cung cấp dịch vụ đưa ra những giải pháp thay đổi hay bổ sung phù hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT, đồng thời góp phần nâng cao sự hài lòng của NNT đối với cơ quan thuế, giúp công tác quản lý thuế tại chi cục đạt hiệu quả hơn.
1. Thế nào là tuyên truyền và hỗ trợ về thuế:
Tuyên truyền về thuế là hoạt động phổ biến những quy định về thuế được ban hành trong các văn bản pháp luật về thuế của nhà nước cũng như những chương trình ứng dụng tin học trong ngành Thuế đến công chúng, đặc biệt là người nộp thuế.
Hỗ trợ về thuế là hoạt động tư vấn, hướng dẫn, trợ giúp quá trình thực thi chính sách, pháp luật về thuế.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ về thuế và sự hài lòng của người nộp thuế
Tuyên truyền hỗ trợ về thuế là hoạt động tiếp nhận, trao đổi thông tin lẫn nhau giữa cơ quan thuế và NNT. Cho nên, chất lượng dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ và sự hài lòng của NNT chịu sự tác động của một số nhân tố cả khách quan lẫn chủ quan.
- Thứ nhất, Các văn bản pháp luật về thuế
Những văn bản về thuế có tác động trực tiếp đến quyền lợi của NNT càng quy định rõ ràng, cụ thể bao nhiêu thì việc tuyên truyền hỗ trợ của cơ quan thuế càng thuận lợi, dễ dàng hơn.
Nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc từ Bộ Tài chính xuống đến Cục Thuế cấp Tỉnh, Thành phố. NNT không thể cập nhật kịp các văn bản này, ngay cả bản thân cán bộ thuế cũng không thể nhớ hết tất cả các văn bản này nếu như không tập hợp và hệ thống lại.
- Thứ hai, cách thức tuyên truyền hỗ trợ của cơ quan thuế:
Cách thức tuyên truyền nếu quá đơn điệu thì càng không thể đạt kết quả tốt như mong muốn.
- Thứ ba, lực lượng làm công tác tuyên truyền hỗ trợ về thuế.
Người làm nhiệm vụ tuyên truyền hỗ trợ về thuế có trình độ chuyên môn cao, nắm bắt tốt nhu cầu của khách hàng, kỹ năng giao tiếp tốt, biết ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác là nhân tố quyết định đến chất lượng công tác tuyên truyền hỗ trợ cũng như sự hài lòng của NNT.
- Thứ tư, trình độ hiểu biết của NNT
NNT cần có trình độ nhất định về mặt kế toán, thuế để có thể hiểu những quy định trong các văn bản pháp luật về thuế, tiếp nhận thông tin hướng dẫn từ phía cơ quan thuế và cũng để truyền đạt tốt hơn nhu cầu, vướng mắc về thuế của đơn vị mình đến cơ quan thuế.
- Thứ năm, thái độ, tình cảm của NNT lẫn cán bộ thuế
Sự yêu ghét, thái độ bất hợp tác hay không tôn trọng đối phương sẽ khiến sự tiếp nhận, đánh giá thông tin từ cả hai phía thiếu sự rõ ràng, đầy đủ và khách quan.
- Thứ sáu, điều kiện vật chất
Phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tuyên truyền hỗ trợ NNT thiếu thốn hay không phù hợp thì cũng khiến nhân viên thuế gặp khó khăn trong công việc. Mặt bằng nơi tổ chức tuyên truyền hỗ trợ chật hẹp, không thoáng mát; không đủ máy móc hỗ trợ tra cứu tài liệu hoặc soạn thảo văn bản hướng dẫn; đường truyền mạng thường trục trặc, v.v... thì không thể cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt được và cũng không thể tránh khỏi sự phiền lòng của khách hàng.
3. Quy định về công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế
3.1. Nhân sự thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế
Theo quy định tại Quyết định số 504/QĐ-TCT về chức năng, nhiệm vụ của các Đội thuế thuộc Chi cục Thuế, việc tuyên truyền hỗ trợ NNT do Đội Tuyên truyền – Hỗ trợ người nộp thuế đảm nhiệm.
3.2. Các hình thức tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế
Để tuyên truyền chính sách thuế đến NNT, cũng như hỗ trợ giải quyết những vướng mắc về thuế trong quá trình thực hiện của NNT, Các Chi cục Thuế sử dụng nhiều hình thức khác nhau.
- Hình thức tuyên truyền, tập huấn tập trung
Được sử dụng khi cần phổ biến các chính sách, quy định mới về thuế đến tất cả NNT và thường áp dụng với đối tượng là doanh nghiệp hoặc các đơn vị hành chính sự nghiệp, các ban ngành, đoàn thể.
- Hình thức đối thoại theo từng chuyên đề hoặc theo ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc tập huấn chính sách mới kết hợp với đối thoại cũng tạo hiệu quả cao. Tại các buổi tập huấn, đối thoại, những tài liệu tóm lược những điểm chính về chính sách thuế mới mà NNT nhận được sẽ giúp họ nắm bắt nhanh chóng và dễ nhớ.
- Tra cứu thông tin tại máy kiosk điện tử tại trụ sở chi cục:
NNT còn có thể tìm hiểu, tra cứu các nội dung sau:
+ Một số văn bản pháp luật về các sắc thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhà thầu nước ngoài, thuế môn bài, lệ phí trước bạ nhà đất/xe;
+ Thủ tục hành chính thuế: đăng ký cấp mã số thuế đối với hộ kinh doanh, hồ sơ pháp lý ban đầu đối với tổ chức kinh doanh, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, mua hóa đơn, xác nhận nghĩa vụ thuế.
+ Một số vướng mắc về thuế kèm theo nội dung trả lời của cơ quan thuế.
- Phát tờ bướm hướng dẫn:
Đối với những tổ chức kinh doanh mới thành lập hoặc chuyển từ nơi khác đến, các chi cục thực hiện phát tờ bướm hướng dẫn về một số thông tin chủ yếu như hồ sơ ban đầu, hồ sơ và thời hạn khai thuế, quản lý và sử dụng hóa đơn, đăng ký cấp mã số thuế thu nhập cá nhân cho người lao động, kê khai thuế qua mạng, hồ sơ giải thể.
- Niêm yết thông tin tại trụ sở cơ quan thuế:
Những điểm mới trong quy định về thuế hay thông báo của chi cục đều được niêm yết công khai tại trụ sở chi cục để người dân có thể tìm hiểu khi đến liên hệ
- Tuyên dương NNT điển hình:
Với những tổ chức, cá nhân kinh doanh điển hình trong thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, hình thức biểu dương trong các Hội nghị tuyên dương của cơ quan thuế chính là sự ghi nhận và trân trọng những đóng góp của họ cho ngân sách nhà nước; qua đó, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của NNT.
- Hình thức hướng dẫn, giải đáp trực tiếp tại trụ sở cơ quan thuế, qua điện thoại và bằng văn bản
Là hình thức hỗ trợ NNT được các Chi cục thường sử dụng nhất. Khi gặp các vướng mắc về chính sách, pháp luật thuế, NNT thường liên hệ trực tiếp với bộ phận tuyên truyền hỗ trợ để được giải đáp. Nếu những vướng mắc phát sinh chưa được quy định trong văn bản pháp luật về thuế hoặc quy định chưa rõ thì NNT thường chọn hình thức gởi văn bản. Bởi với tâm lý “sợ sai” của mình, thực hiện theo văn bản hướng dẫn của cơ quan thuế là an toàn nhất vì nó là “cơ sở pháp lý” đảm bảo nhất.
- Tra cứu thông tin thông qua trang tin điện tử
4. Những mặt tồn tại của công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT
Hiện nay, hoạt động tuyên truyền hỗ trợ NNT vẫn còn một số mặt tồn tại về nội dung, hình thức và phương pháp triển khai.
- Về hoạt động tuyên truyền:
Đối với hình thức tuyên truyền qua tờ bướm, thông báo niêm yết tại trụ sở cơ quan thuế mà chi cục thường sử dụng, đa phần NNT ít quan tâm để ý bởi nội dung thể hiện nhiều thông tin nhưng hình thức trình bày lại không sinh động, ấn tượng, lôi cuốn.
Do thiếu phân loại nhóm NNT và xác định nội dung, hình thức tuyên truyền cho các nhóm đối tượng nên thông tin cần phổ biến đến NNT thường chung chung, dàn trải.
Các buổi đối thoại theo chuyên đề hoặc theo một nhóm đối tượng NNT cụ thể còn quá ít so với nhu cầu cần được đáp ứng của NNT.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin thông qua mạng internet của NNT hiện nay rất lớn nhưng các chi cục chưa có trang tin điện tử riêng để thực hiện việc này.
Gần đây, kiosk điện tử được đưa vào sử dụng cho mục đích tuyên truyền hỗ trợ tại các chi cục nhưng nó chỉ dừng ở mức là công cụ tra cứu thông tin về cán bộ quản lý, một số thủ tục hành chính thuế như hồ sơ pháp lý ban đầu, mua hóa đơn, hoàn thuế, ... Sở dĩ, kiosk điện tử ít được sử dụng vì nội dung trên đó không được cập nhật thường xuyên, thời gian tra cứu lâu.
- Về hoạt động hỗ trợ:
Thiếu nhân sự lẫn phương tiện hỗ trợ là nguyên nhân khiến dịch vụ hỗ trợ về thuế cũng chưa hiệu quả. Đội Tổng hợp – Nghiệp vụ dự toán – Tuyên truyền hỗ trợ với máy vi tính, máy điện thoại phục vụ một lượng lớn NNT đến liên hệ trực tiếp tại bàn hoặc qua điện thoại nhất là vào những ngày cao điểm nhận hồ sơ khai thuế (từ ngày 18 đến ngày 20 hàng tháng). Số máy vi tính hỗ trợ cho nhân viên trong giải đáp bằng văn bản còn thiếu. Đường truyền mạng cũng thường chậm, trục trặc.
Trách nhiệm pháp lý của cán bộ thuế về nội dung hướng dẫn, hỗ trợ NNT chưa được quy định cụ thể khiến một số đơn vị kinh doanh chưa tin tưởng vào hướng dẫn đó.
Đội ngũ cán bộ hướng dẫn còn trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế, khả năng xử lý công việc chưa tốt. Bên cạnh đó, việc đánh giá chất lượng dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ NNT vẫn chưa được chú trọng.
5. Các giải pháp nâng cao công tác tuyên truyền, hổ trợ người nộp thuế
5.1. Nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của người cán bộ thuế
- Thứ nhất, cán bộ tư vấn thuế cần được trau dồi phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp.
Hoạt động của cơ quan thuế là hoạt động công quyền nên không tránh khỏi tình trạng hách dịch, cửa quyền, quan liêu, thậm chí nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân. Do đó, không chỉ riêng người làm công tác hướng dẫn về thuế mà tất cả cán bộ viên chức ngành Thuế cần tự rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng của người công bộc của nhân dân. Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những nội dung như: nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm; … nên thường xuyên được tổ chức trong toàn thể cán bộ công chức. Nhân viên hướng dẫn về thuế phải có trách nhiệm đối với nội dung hướng dẫn cho NNT tránh hướng dẫn sai gây thiệt hại cho họ và phải cung cấp đầy đủ những thông tin họ cần trong cùng một lần, không được lợi dụng chức trách của mình để gây phiền hà, nhũng nhiễu NNT hoặc hùa theo NNT để lách luật, vi phạm pháp luật về thuế. Ngoài ra, cán bộ tư vấn thuế cũng cần thể hiện tác phong, thái độ đúng mực khi tiếp xúc với người dân; không nên hành động theo thói quen công quyền, thể hiện sự ban ơn đối với NNT mà phải biết đặt mình vào vị trí của NNT để cảm thông và chia sẻ.
- Thứ hai, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ tư vấn thuế
Các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu hoặc kiểm tra kiến thức định kỳ theo từng chuyên đề, từng lĩnh vực khác nhau về thuế, kế toán được tổ chức thường xuyên hoặc định kỳ sẽ giúp nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ tư vấn. Vì nếu cán bộ tuyên truyền yếu thì những sai sót gây ra sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của NNT, thậm chí có thể dẫn đến thiệt hại cho NNT.
- Thứ ba, các chi cục nên tổ chức các buổi sinh hoạt, thảo luận về chính sách thuế giữa các nhân viên công tác tại bộ phận tuyên truyền hỗ trợ có dịp trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau và cũng để thống nhất với nhau về các nội dung tư vấn, hỗ trợ.
- Thứ tư,mỗi nhân viên tư vấn thuế cần biết sử dụng thành thạo các chương trình ứng dụng tin học của ngành để hỗ trợ công tác và phục vụ người dân tốt hơn. Khi triển khai ứng dụng bất kỳ chương trình nào, điều cần thiết là tập huấn ngay và chi tiết đến nhân viên bộ phận hướng dẫn để tránh gặp lúng túng, vụng về khi hướng dẫn NNT.
- Thứ năm,Cán bộ hướng dẫn cũng nên được bố trí công tác ở nhiều bộ phận thuộc các đội khác nhau để có cách nhìn tổng thể về công tác quản lý thuế và tiếp xúc những tình huống thực tế diễn ra. Kiến thức chuyên môn lẫn kinh nghiệm thực tiễn sẽ giúp cán bộ tư vấn có thể nhanh chóng đưa ra hướng giải quyết hợp lý cho những khó khăn, vướng mắc của NNT.
- Thứ sáu,mỗi người cán bộ thuế phải cố gắng rèn luyện kỹ năng giao tiếp và biến kỹ năng đó thành nghệ thuật của bản thân.
Điều đó sẽ giúp họ tự tin trong xử lý các tình huống phát sinh khi giao tiếp với NNT, không bị lúng túng trong quan hệ ứng xử. Có nhiệt tâm, có chuyên môn nhưng thiếu hoặc yếu kỹ năng, văn hóa giao tiếp thì cũng khiến NNT cảm thấy không hài lòng khi tiếp xúc với nhân viên thuế. Và như thế, hiệu quả giao tiếp giữa hai bên sẽ thấp. Vậy nên cơ quan thuế nên có kế hoạch và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo và bồi dưỡng những kỹ năng giao tiếp cho công chức viên chức thuế.
- Thứ bảy, kết hợp hoạt động giám sát, kiểm tra, xử lý với hoạt động khen thưởng, động viên cán bộ.
Chất lượng dịch vụ tuyên truyền hỗ trợ về thuế có tốt hay không cũng cần có sự giám sát, kiểm tra trong nội bộ đơn vị lẫn từ phía NNT. Chẳng hạn như thông qua các buổi đối thoại, khảo sát, trưng cầu ý kiến, cơ quan thuế lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của NNT để từ đó khắc phục, cải thiện những mặt còn hạn chế, điều chỉnh hoạt động để nâng cao chất lượng dịch vụ được tốt hơn. Công khai bảng tên người được phân công làm tư vấn, hỗ trợ NNT, lắp đặt máy ghi hình quan sát, thực hiện kiểm tra công vụ đột xuất hoạt động tư vấn, hỗ trợ NNT trực tiếp tại bộ phận hướng dẫn; thiết lập hòm thư góp ý, đường dây nóng tiếp nhận đơn thư, ý kiến phản ánh của người dân nhằm phát hiện và xử lý những trường hợp công chức viên chức thuế gây nhũng nhiễu, có thái độ không đúng khi tiếp xúc với người dân hoặc làm sai chức trách của mình là một số cách thức giám sát hoạt động tuyên truyền hỗ trợ về thuế. Các chi cục có thể tổ chức cuộc bình chọn “Cán bộ tuyên truyền giỏi, thân thiện” cho NNT theo kỳ. Dựa trên số lượng bình chọn của NNT, cá nhân nào được bình chọn nhiều nhất sẽ được nêu gương và khen thưởng xứng đáng. Những cá nhân có sáng kiến, cải tiến trong công tác hay hoàn thành tốt yêu cầu công việc cả về nội dung nghiệp vụ lẫn thái độ, kỹ năng phục vụ với NNT theo bình bầu thi đua hàng kỳ cũng vậy.
5.2. Chuyên nghiệp hóa công tác tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn thông tin
- Thứ nhất, công khai hóa hoạt động giao tiếp của cán bộ thuế đến NNT. Chẳng hạn như, trình tự, thủ tục giải quyết vướng mắc thuế trực tiếp tại bàn, qua điện thoại, gởi văn bản hay qua thư điện tử; việc tiếp nhận và giải đáp vướng mắc thuế tại buổi tập huấn, đối thoại; cơ chế tiếp nhận và giải quyết các ý kiến phản hồi của người dân phải được công khai cho mọi người dân được biết; tên và trách nhiệm của lãnh đạo phụ trách, trưởng/phó đội phụ trách, cán bộ trực tiếp làm công tác tư vấn, hỗ trợ. Qua đó, người dân có thể xác định đúng bộ phận cần liên hệ, thực hiện đúng các quy định, giám sát việc thực hiện và quy trách nhiệm đúng đối tượng. Việc công khai này được thực hiện bằng nhiều phương tiện như: niêm yết tại trụ sở cơ quan thuế, đăng thông tin trên máy kiosk điện tử/trang thông tin điện tử của chi cục, gởi thông báo, in tờ bướm, … -
Thứ hai, tuyên dương những gương NNT điển hình chấp hành tốt nghĩa vụ thuế và những trường hợp vi phạm pháp luật về thuế bị xử lý cũng cần được công khai tại trụ sở cơ quan thuế và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tôn vinh, khen thưởng những tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong chấp hành nghĩa vụ thuế hoặc tố giác những hành vi vi phạm pháp luật về thuế bên cạnh việc phê phán các trường hợp vi phạm đã bị xử lý sẽ vừa là cách tuyên truyền pháp luật thuế vừa là cách răn đe, ngăn ngừa sai phạm khác của người dân cũng như NNT.
- Thứ ba,cần tổ chức hoạt động tuyên truyền hỗ trợ về thuế thành một dây chuyền khép kín với từng nhóm phụ trách các mảng công việc khác nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Cụ thể, mô hình hoạt động đề xuất gồm 4 nhóm với công việc như sau:
+ Nhóm lập kế hoạch, chuẩn bị nội dung (nhóm 1): Nhóm đầu tiên này có trách nhiệm xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể về hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT ngay từ đầu năm dựa trên tình hình triển khai chế độ chính sách và yêu cầu giải quyết những vấn đề khó khăn của NNT trên địa bàn. Khi có những quy định về thuế mới, nhóm sẽ phụ trách nghiên cứu, phân tích, so sánh với những quy định trước đó để đưa ra nội dung tuyên truyền, hướng dẫn làm sao cho thật ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
+ Nhóm tuyên truyền (nhóm 2): Nhóm tuyên truyền sẽ công khai hóa các nội dung mà nhóm 1 đề nghị đến mọi người dân thông qua nhiều phương tiện thông tin như: niêm yết công khai tại trụ sở đơn vị, gởi thông báo qua đường bưu điện/nhắn tin SMS/gởi thư điện tử đến doanh nghiệp, phát tài liệu/ấn phẩm thuế/tờ bướm/mẫu biểu miễn phí, lập băng rôn/áp phích, đăng tin trên kiosk điện tử và trang thông tin điện tử của chi cục, tổ chức tập huấn/đối thoại, …
+ Nhóm hỗ trợ (nhóm 3): Nhóm này sẽ phụ trách tiếp nhận những vướng mắc của NNT từ nhiều nguồn khác nhau như tiếp xúc trực tiếp, qua điện thoại, bằng văn bản, đường dây nóng, hộp thư điện tử, tập huấn/đối thoại, … Sau đó, nhóm sẽ nghiên cứu, tra cứu các văn bản pháp luật liên quan đến vướng mắc đó.
+ Nhóm lưu trữ, báo cáo (nhóm 4): Công việc của nhóm là lưu trữ các tài liệu liên quan đến việc lập kế hoạch, soạn thảo nội dung tuyên truyền, tổ chức tuyên truyền, hỗ trợ về thuế và tổng hợp lập báo cáo theo yêu cầu của ban lãnh đạo chi cục và các cơ quan cấp trên. Nhóm phải rà soát, kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của những tài liệu này. Qua quá trình rà soát, nếu thấy những vấn đề vướng mắc nào mà NNT thường gặp nhưng nội dung tuyên truyền chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa rõ thì nhóm phải tập hợp lại và đề nghị chuyển cho nhóm 1 để soạn thảo thêm nội dung tuyên truyền mới.
5.3. Trang bị, bố trí phương tiện vật chất phục vụ hiện đại, phù hợp
Có đội ngũ cán bộ tuyên truyền, hỗ trợ đạt chất lượng, được tổ chức hoạt động chuyên nghiệp theo một quy trình chặt chẽ nhưng lại không có phương tiện vật chất hỗ trợ thì khó mà phục vụ tốt cho NNT. Một số giải pháp đề xuất như sau:
+ Trang bị đồng phục, thẻ tên, bảng tên đầy đủ cho các nhân viên làm công tác tuyên truyền hỗ trợ về thuế là cách để tạo hình tượng nhân viên thuế với tác phong hiện đại, vừa thể hiện sự tôn nghiêm của một cơ quan quản lý nhà nước vừa thể hiện sự tôn trọng của cơ quan thuế đối với người dân.
+ Bố trí khu vực tư vấn, hỗ trợ về thuế ở một nơi chuyên biệt trong một không gian thoáng mát, ngăn cách không gian với các khu vực khác; trong đó, mỗi nhóm phụ trách công việc khác nhau như nhóm soạn tài liệu tuyên truyền, nhóm hướng dẫn tại bàn, nhóm hướng dẫn qua điện thoại, … cũng được tách biệt để không ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của nhau.
+ Thiết lập tổng đài trả lời tự động một số nội dung đơn giản như hồ sơ ban đầu của doanh nghiệp mới thành lập, thủ tục đăng ký thuế của hộ kinh doanh, các mức xử phạt chậm đăng ký thuế hay nộp hồ sơ khai thuế, thủ tục báo mất hay hủy hóa đơn, số điện thoại liên hệ với các đội thuế ... Hình thức hỗ trợ này nếu có đưa vào sử dụng phải thông báo rộng rãi cho người dân biết để sử dụng.
+ Đối với trường hợp hướng dẫn trực tiếp tại bàn, chi cục nên lắp đặt thiết bị in số thứ tự, kệ để mẫu phiếu đăng ký nội dung cần tư vấn, hỗ trợ, bàn ghế để NNT ghi nội dung cần hỗ trợ vào phiếu. Việc này đảm bảo cho công tác hướng dẫn diễn ra có trình tự, trật tự.
+ Trang bị đủ máy vi tính có nối mạng và cài đặt đầy đủ phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho các nhân viên, máy in, điện thoại, máy fax, máy photocopy hiện đại tại bộ phận hướng dẫn và phải đảm bảo chúng luôn trong tình trạng hoạt động tốt.
+ Bố trí khu vực chờ cho NNT tại khu vực hướng dẫn thật thoáng mát, xanh sạch, có đủ chỗ ngồi thoải mái, có nước uống, có kệ để sách báo/tài liệu về thuế, có màn hình điện tử chạy những thông tin tuyên truyền về thuế. Nó giúp tạo cảm giác thư thái cho NNT khi đến liên hệ với cơ quan thuế và tiếp cận các thông tin về thuế.
+ Bố trí thêm khu vực dành riêng cho NNT có lắp đặt kiosk điện tử tra cứu thông tin; kệ để các mẫu biểu về thuế miễn phí; có bàn ghế, máy vi tính (không có nối mạng vào hệ thống của cơ quan thuế, chỉ mở giới hạn một số trang thông tin điện tử cho phép) và máy in để NNT sử dụng viết/soạn thảo văn bản, lập hồ sơ khai thuế, .... Đối với những NNT không đủ điều kiện trang bị thiết bị hỗ trợ cho hoạt động khai, nộp thuế hoặc những NNT mới đến liên hệ lần đầu với cơ quan thuế hẳn điều này sẽ rất hữu ích vì nó sẽ giúp tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại của NNT.
+ Xây dựng hội trường và một số phòng họp được trang bị đủ tiện nghi hiện đại phục vụ cho các buổi hội nghị, tập huấn, đối thoại với một hoặc nhiều nhóm đối tượng nộp thuế khác nhau. Như thế, cơ quan thuế có thể chủ động thực hiện phổ biến chính sách thuế theo từng chuyên đề, từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau, ... cùng một lúc mà không phải bị phụ thuộc nhiều vào việc thiếu địa điểm hay kinh phí tổ chức.
+ Củng cố cơ sở hạ tầng thông tin tại chi cục (hệ thống máy chủ, thiết bị truyền mạng, các chương trình ứng dụng hỗ trợ tra cứu thông tin, ..) nhằm giúp hoạt động tư vấn, hỗ trợ thuế diễn ra trôi chảy, nhanh chóng, hạn chế tình trạng bị lỗi như hiện nay. Nhất là trong giai đoạn nhà nước đang tiến hành thực hiện chính phủ điện tử, các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ qua thư điện tử, trang tin điện tử trong tương lai sẽ diễn ra nhiều hơn thì hạ tầng thông tin càng cần phải ổn định.
3.3. Kiến nghị với các cấp có thẩm quyền
Để tất cả giải pháp đề xuất nêu trên đều có thể đi vào thực tiễn và áp dụng có hiệu quả, đồng bộ, bên cạnh việc chủ động vận dụng sáng tạo các nguồn lực sẵn có của các chi cục rất cần sự phối hợp tích cực của các lực lượng chính trị tại địa phương và nhất là sự quan tâm, hỗ trợ của các cơ quan quản lý cấp trên.
- Kiến nghị đối với Bộ Tài chính:
+ Trước khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thuế nên trưng cầu ý kiến đóng góp của nhiều tầng lớp nhân dân, rà soát kỹ để tránh tình trạng sửa đổi, bổ sung nhiều lần hoặc phải ban hành văn bản hướng dẫn dưới luật quá nhiều gây khó khăn cho cả NNT lẫn cán bộ thuế trong việc cập nhật thông tin hay thi hành pháp luật thuế như quy định về thuế thu nhập cá nhân hay tự in/đặt in hóa đơn vừa qua.
+ Cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện khi Nhà nước đưa ra các chính sách tháo gỡ khó khăn cho NNT, người dân. Chẳng hạn như, khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 08/2011/QH13 ngày 06/8/2011 ban hành chính sách ưu đãi thuế cho tổ chức, cá nhân như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân thì ngày 12/8/2011 Bộ Tài chính có công văn số 10790/BTC-CST gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp triển khai Nghị quyết trên. Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn cách kê khai để hưởng chính sách ưu đãi ấy cho NNT, cách cơ quan thuế theo dõi hay quản lý ra sao thì đến nay vẫn chưa có.
+ Các mẫu biểu nếu có ban hành kèm theo văn bản pháp luật về thuế nên hướng dẫn cách điền thông tin để tránh NNT không hiểu hoặc hiểu sai dẫn đến khai sai, khai thiếu thông tin. Kể đến như mẫu bảng kê hóa đơn chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào, nếu doanh nghiệp không được tập huấn hay xem qua nội dung hướng dẫn khai thuế theo chương trình hỗ trợ khai thuế thì rất dễ khai không đúng bảng kê này.
+ Ban hành văn bản quy định rõ ràng về tính pháp lý của thông tin tư vấn, hướng dẫn mà cán bộ làm công tác hỗ trợ về thuế cung cấp; trách nhiệm của cán bộ thuế đối với thông tin tư vấn đã cung cấp cho NNT, nhất là qua hình thức tư vấn trực tiếp tại bàn và qua điện thoại. Vì hiện nay NNT vẫn chịu trách nhiệm toàn bộ về quyết định của mình dù quyết định đó được thực hiện theo sự hướng dẫn của cán bộ tư vấn thuế. Có thể thấy là độ tin cậy của thông tin tư vấn chưa cao.
- Kiến nghị đối với Tổng cục Thuế:
+ Cập nhật và đăng tải đầy đủ các văn bản hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về thuế trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế để đây trở thành nơi tìm kiếm thông tin hỗ trợ các vấn đề về thuế đáng tin cậy cho không chỉ NNT mà còn tất cả người dân.
+ Chương trình hỗ trợ khai thuế cho NNT cần nâng cấp kịp thời với những thay đổi của chính sách thuế và cần được ban hành sớm. Ví dụ, khi có chính sách gia hạn số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011, do chương trình chưa bổ sung nội dung này nên cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp ghi tạm trên tờ khai nhưng vẫn có doanh nghiệp quên khai. Một ví dụ khác là Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính có hiệu lực thi hành từ ngày 14/4/2011, thay đổi toàn bộ các mẫu biểu khai thuế theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/7/2007 của Bộ Tài chính. NNT sử dụng mẫu biểu mới theo Thông tư số 28/2011/TT-BTC kể từ kỳ khai thuế giá trị gia tăng tháng 7/2011, kỳ khai thuế thu nhập doanh nghiệp quý 3/2011. Tuy nhiên, đến khoảng ngày 15/8/2011 mới chính thức có chương trình HTKK 3.0. Từ cuối tháng 7/2011, rất nhiều doanh nghiệp gọi điện hoặc đến hỏi chi cục thuế khi nào có chương trình mới, nếu không có thì khai tạm bằng chương trình cũ hay khai theo mẫu không có mã vạch. Rồi khi có chương trình mới thì bị một số lỗi như không nhập được số âm, báo lỗi khi nhập hóa đơn có lệ phí (như hóa đơn nước, xăng dầu), cho nhập giá trị tối đa 10 chữ số, lấy dữ liệu từ bảng tính excel vào chương trình bị lỗi, ... NNT nôn nóng, than phiền; cán bộ hướng dẫn lúng túng không biết hướng dẫn ra sao. Tình trạng quá tải trong những ngày cuối của hạn nộp hồ sơ khai thuế càng thêm nặng nề.
+ Nâng cấp đường truyền mạng và công cụ tìm kiếm trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế để có thể phục vụ việc tra cứu cùng lúc của lượng lớn NNT bởi nhiều NNT than phiền rằng tra cứu thông tin trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thường chậm, nghẽn mạng, rớt mạng; công cụ tìm kiếm chưa hiệu quả. Cho nên, nếu chi cục hướng dẫn NNT tra cứu văn bản hướng dẫn tham khảo trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Thuế mà gặp khó khăn thì cũng khiến NNT không hài lòng.
+ Hiện nay, khi ngành Thuế đang tích cực vận động NNT khai thuế qua mạng thì cần xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin thật hiện đại và vững mạnh bởi NNT vẫn còn chưa tin tưởng vào hệ thống tiếp nhận và bảo mật thông tin của ngành Thuế.
+ Nghiên cứu ban hành quy chế, quy trình cho phép cơ quan thuế hướng dẫn, hỗ trợ NNT qua mạng, mở ra một kênh tuyên truyền hỗ trợ về thuế mới cho NNT phù hợp với thời kỳ thực hiện chính phủ điện tử trong chiến lược hiện đại hóa công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT.
+ Cấp phát thêm các loại ấn phẩm về thuế cho các cơ quan thuế cấp cơ sở để phát miễn phí cho người dân, giúp làm phong phú hơn các tài liệu tuyên truyền pháp luật thuế của các cơ quan thuế ở địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, Tổng cục Thuế, Hà Nội – 2011;
2. Cẩm nang hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 9001: 2000 (ban hành theo Quyết định số 2219/QĐ-CCT ngày 04/4/2007, lần ban hành 01);
3. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
4. Quyết định số 504/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế về việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các đội thuộc Chi cục Thuế;
5. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thuế cho công chức mới (2009), Quyển 1: Kiến thức chung về thuế, ngành thuế, Hà Nội: Trường Nghiệp vụ thuế - Tổng cục Thuế;
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: