CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP SÂU VÀO CÁC KHU VỰC KINH TẾ CHUNG
TS. Phan Thanh Hải
Trưởng khoa Kế toán
Ngành kiểm toán độc lập của Việt Nam đã trải qua gần 25 năm hình thành và phát triển. Tương lai nào cho ngành kiểm toán độc lập với xu thế mới và vận hội mới trong thời đại ngày nay luôn là một câu hỏi lớn đặt ra cho chính bản thân những nhà quản lý, hoạch định chính sách về kiểm toán ở cấp độ vĩ mô. Trong đó việc thiết kế và hoạch định cho được các chiến lược phát triển ngành hợp lý, đúng đắn là việc làm mang tính chất cốt lõi, là yếu tố quyết định hơn cả.
Nội dung của bài viết này tác giả xin điểm lại và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội và thách thức của ngành kiểm toán độc lập ở thời điểm hiện nay để từ đó mạnh dạn nêu ra các chiến lược mà ngành kiểm toán độc lập có thể lựa chọn trong quá trình phát triên ở thời gian tới.
1. Sự cần thiết phải có chiến lược phát triển ngành
Trên thế giới, thuật ngữ “chiến lược” đã xuất hiện từ rất lâu và đã từng có tác giả phát biểu : “Chiến lược là quá trình đề ra các mục tiêu dài hạn, nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường bên ngoài và bên trong, trên cơ sở đó phối hợp với các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [4].
Như vậy chiến lược đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của một tổ chức, một doanh nghiệp và nói rộng hơn là của cả một ngành. Bởi lẽ ngành là tập hợp nhiều tổ chức, doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực giống nhau.
Việc xây dựng chiến lược phát triển của các ngành nói chung và kiểm toán nói riêng là điều hết sức cần thiết bởi các nguyên nhân sau :
- Chiến lược giúp ngành thấy được mục đích và hướng đi trong tương lai
- Chiến lược giúp ngành phản ứng tốt hơn với những thay đổi của môi trường. Môi trường luôn thay đổi và có ảnh hưởng đến ngành, tạo ra cơ hội cho ngành nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều mối đe dọa. Ngành nào xây dựng được chiến lược thì đồng nghĩa với việc dự đoán được những cơ hội và đe dọa từ môi trường, từ đó họ có thể ứng phó tốt hơn, tận dụng tốt hơn sự thay đổi của môi trường.
- Chiến lược giúp ngành nhận diện ra và sử dụng nội lực của nó tốt hơn. Việc nhận diện, phân tích nội lực của mình sẽ giúp ngành xác định được những điểm mạnh và điểm yếu của mình từ đó có những sách lược phân bổ nguồn lực của mình một cách hợp lý để phát huy những mặt mạnh và khắc phục những mặt yếu của mình
- Chiên lược là công cụ giúp ngành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Thực chất chiến lược cũng chính là hệ thống các mục tiêu mà ngành đề ra chính vì vậy vừa làm cơ sở thực hiện, vừa làm cơ sở đối chiếu kiểm tra, so sánh với thực tế thực hiện
Như vậy, qua trình bày ở trên chúng ta có thể thấy được rằng đối với tất cả các ngành nói chung và ngành kiểm toán độc lập ở Việt Nam nói riêng thì vấn đề phải xây dựng và hoạch định chiến lược phát triển là điều hết sức cần thiết và mang tính sống còn.
2. Phân tích cơ hội, mối đe dọa, điểm mạnh và điểm yếu của ngành kiểm toán độc lập Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Qua gần 25 năm hoạt động, thực trạng phát triển ngành kiểm toán độc lập của Việt Nam có thể được khắc họa sơ lược qua việc phân tích cơ hội, đe dọa, điểm mạnh và điểm yếu qua việc xem xét sự ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài ngành như sau :
2.1. Các yếu tố bên ngoài ngành
Trong quá trình phát triển của mình, ngành kiểm toán độc lập chịu rất nhiều sự chi phối và ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài ngành. Chính những yếu tố này vừa mang lại các cơ hội phát triển nhưng đồng thời cũng đặt cho ngành kiểm toán độc lập trước những mối đe dọa và ảnh hưởng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài khác nhau, tuy nhiên theo chúng tôi có thể kể đến các yếu tố chính thuộc về phương diện chính trị, pháp luật; phương diện xã hội; phương diện kỹ thuật và công nghệ. Cụ thể như sau :
- Về phương diện chính trị, pháp luật
* Cơ hội :
Trong những năm vừa qua, có thể thấy Việt Nam chúng ta là một trong các quốc gia được đánh giá là có điều kiện chính trị ổn định. Chính điều này đã tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong nhiều ngành nghề đồng thời tạo cơ hội cho ngành kiểm toán độc lập có thêm nhiều khách hàng kiểm toán.
Chúng ta cũng đã xây dựng được một môi trường pháp lý khá đầy đủ, qua đó tạo điều kiện cho ngành kiểm toán phát triển đặc biệt là các văn bản pháp luật về kế toán, thuế, bảo hiểm, ngân hàng, đầu tư, chứng khoán…đã tương đối hoàn thiện và hài hòa với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
* Đe dọa :
Hệ thống các văn bản pháp luật nói chung của Việt Nam và của ngành kiểm toán độc lập nói riêng vẫn còn chưa hoàn thiện. Hiện nay chúng ta vẫn chưa có Luật về kiểm toán độc lập; Bộ tài chính đã ban hành 38 chuẩn mực kiểm toán nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc vận dụng ”chúng” trong thực tiễn; vấn đề kiểm soát, đánh giá tính minh bạch và chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán hàng năm vẫn còn chưa thực sự tốt; tiêu chí đánh giá cuộc kiểm toán, năng lực của kiểm toán viên còn chưa được chú trọng xây dựng ở mức độ sâu hơn.
- Về phương diện xã hội
* Cơ hội :
Việt Nam là thị trường có lực lượng lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong những năm qua. Đây có thể coi là cơ hội để ngành kiểm toán phát triển khi kết hợp với xu thế minh bạch hóa và công khai hóa tình hình tài chính, sử dụng dịch vụ đánh giá và tư vấn ngày càng tăng cao trong xã hội.
* Đe dọa :
Nhận thức về dịch vụ kiểm toán và vai trò của việc hành nghề kiểm toán của nhiều doanh nghiệp và công chúng còn chưa cao. Nhiều doanh nghiệp và các nhà quản lý vẫn giữ quan điểm cho rằng “bị kiểm toán” chứ không phải là “được kiểm toán”. Các đối tượng này còn e ngại về tính bảo mật của các số liệu, sổ sách kế toán và đặc biệt là các thông tin tài chính của đơn vị trong quá trình kinh doanh do đó họ có xu hướng cho rằng việc sử dụng các dịch vụ do công ty kiểm toán bên ngoài cung cấp là không cần thiết. .
- Về phương diện kỹ thuật, khoa học công nghệ
* Cơ hội :
Công nghệ thông tin và các kỹ thuật công nghệ trên thế giới và ở Việt Nam ngày càng hiện đại. Do đó việc thu thập thông tin, xử lý các dữ liệu và bằng chứng kiểm toán của từng khách hàng được thực hiện một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí thực hiện.
* Đe dọa :
Công nghệ liên tục thay đổi làm cho các kỹ thuật và quy trình kiểm toán ít nhiều bị ảnh hưởng và thay đổi theo do bản chất của nghiệp vụ thay đổi, thủ tục kiểm soát của các doanh nghiệp cảng trở nên cũ kỹ và lạc hậu. Do đó gây cho các doanh nghiệp kiểm toán phải “chạy đua” trong công tác đầu tư trang bị công nghệ, đẩy mạnh hoạt động đào tạo nhân lực thực thi. Điều này cũng gây cho bản thân ngành kiểm toán độc lập một áp lực tốn kém về thời gian và chi phí nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện quy trình thực hiện công tác kinh doanh trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn.
2.2. Các yếu tố bên trong ngành
Tương tự như các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành kiểm toán độc lập những năm vừa qua, thì các yếu tố ảnh hưởng của chính bản thân bên trong ngành cũng vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy các yếu tố này vừa phản ánh điểm mạnh vừa phản ánh điểm yếu trong quá trình phát triển của ngành. Các yếu tố bên trong có khá nhiều tuy nhiên theo chúng tôi thì một số các yếu tố chính có thể kể đến đó là yếu tố về nguồn nhân lực, về kiểm soát chất lượng, về tổ chức quản lý và về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh của các công ty kiểm toán. Cụ thể như sau :
- Về nguồn nhân lực
* Điểm mạnh :
Các nhân sự tham gia làm việc trong ngành kiểm toán đều có tuổi đời bình quân trẻ, được đào tạo chuyên nghiệp về các lĩnh vực chuyên môn chuyên sâu. Do đó có sự am hiểu nhất định về nhiều lĩnh vực kinh doanh của khách hàng trong quá trình kiểm toán.
* Điểm yếu :
- Số lượng nhân sự làm việc chưa đáp ứng đươc nhu cầu của thị trường lao động và yêu cầu phát triển của ngành. Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước có gần 18.000 người làm việc trong các doanh nghiệp kiểm toán, nhưng mới chỉ có gần 2000 người được cấp chứng chỉ KTV. Trong đó chỉ có 1200 KTV đăng ký hành nghề trong 170 doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện đã hành nghề, số còn lại gần 600 KTV có chứng chỉ nhưng không hành nghề kiểm toán mà làm trong các ngành nghề khác như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. [8]
- Quá trình chảy máu chất xám của nhân lực ngành kiểm toán trong những năm qua là khá mạnh bởi sự không tương xứng giữa áp lực và độ khó của công việc với thu nhập và thời gian nghỉ ngơii của người nhân viên.
- Về kiểm soát chất lượng kiểm toán
* Điểm mạnh :
+ Đã có đầy đủ quy chế, văn bản pháp quy rõ ràng quy định về vấn đề kiểm soát chất lượng kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập trong quá trình kinh doanh.
+Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát theo kế hoạch hàng năm, các cấp quản lý kiểm toán như Bộ tài chính, Hiệp hội đã có những phát hiện và kịp thời chấn chỉnh các sai phạm trong hoạt động, quản lý điều hành của các công ty kiểm toán
* Điểm yếu:
+Đối tượng và phạm vi thực hiện công tác KSCLKT còn bị giới hạn. Nội dung công tác kiểm tra, kiểm soát mới chỉ chủ yếu tập trung vào việc kiểm toán tuân thủ các quy định liên quan đến hành nghề kiểm toán, quy trình tuyển dụng và đào tạo các nhân viên nghiệp vụ chứ chưa đi sâu vào thực hiện việc kiểm tra công tác thu thập các bằng chứng kiểm toán của KTV, công tác lập, soát xét, lưu trữ các hồ sơ kiểm toán.
+ Thời gian thực hiện công tác KSCLKT thường ngắn; công tác kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị, kết luận KSCLKT của Hiệp hội đối với các công ty KTĐL sau một thời gian thực hiện việc KSCLKT còn chưa thường xuyên.
- Về tổ chức quản lý
* Điểm mạnh :
+ Hiện nay, Bộ Tài Chính về cơ bản đã chuyển giao một số nội dung quản lý ngành kiểm toán độc lập cho VACPA. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ chung của thế giới, bởi lẽ nhà nước chỉ quản lý vĩ mô về hoạt động kiểm toán như ban hành các đạo luật, hay các quy định có liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động kiểm toán; hội nghề nghiệp chịu trách nhiệm về quản lý nghề nghiệp như ban hành các chuẩn mực, cấp chứng chỉ hành nghề.
+ Đã thực hiện việc đa dạng hóa hình thức sở hữu của các công ty kiểm toán trong những năm qua chính vì vậy tạo điều kiện cho nhiều công ty thâm nhập ngành, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán, góp phần cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ.
* Điểm yếu
+ Theo thông lệ quốc tế, để nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán thì buộc các công ty kiểm toán phải hoạt động dưới hình thức công ty hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn trước các khoản thiệt hại gây ra đối với khách hàng. Tuy nhiên thực tế hiện nay hình thức công ty kiểm toán là trách nhiệm hữu hạn vẫn tồn tại phổ biến theo nội dung của nghị định 133/2005/NĐ-CP (chiếm hơn 140 công ty) [8]
- Về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh của các công ty kiểm toán
* Điểm mạnh :
Trong những năm vừa qua, đã có nhiều công tykiểm toán có thương hiệu và uy tín về kiểm toán trên thế giới như PWC, Ernst&Young, Delloitte, KPMG “thâm nhập” vào nước ta; đồng thời xu thế sát nhập các công ty kiểm toán có quy mô vừa và nhỏ, xu thế trở thành thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế có tên tuổi ngày càng trở nên phổ biến trong ngành kiểm toán. Chính xu thể này đã làm cho năng lực tài chính của nhiều công ty kiểm toán ngày một tốt hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới.
* Điểm yếu :
+ Tuy đã xuất hiện các xu thế mang yếu tố tích cực như đã kể trên nhưng đại đa số các công ty kiểm toán ở Việt Nam hiện nay vẫn là các công ty kiểm toán có quy mô vừa và nhỏ. Số lượng các công ty kiểm toán đủ sức thực hiện việc cung cấp dịch vụ cho các công ty đại chúng có niêm yết chỉ vào khoảng gần 30/170 đơn vị. [8]
+ Hoạt động marketing, tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ kiểm toán mới trên thế giới của các công ty kiểm toán ở Việt Nam vẫn còn chưa được chú trọng và đầu tư đúng mức.
3. Những nội dung cơ bản của các chiến lược phát triển ngành kiểm toán
Qua phân tích các cơ hội, các mối đe dọa cũng như khẳng định nhưng điểm mạnh và điểm yếu then chốt của ngành kiểm toán độc lập ở Việt Nam trong gần 20 năm qua, chúng ta có thể đề ra một số các chiến lược phát triển trọng tâm của ngành trong thời gian đến như sau :
- Thứ nhất, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là chúng ta phải hết sức tận dụng cơ hội nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà tăng trưởng ổn định, nguồn nhân lực có sức trẻ và chi phí thấp, bối cảnh mở cửa làm xuất hiện thêm nhiều khách hàng tiềm năng mới cho dịch vụ kiểm toán để tăng cường công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực kiểm toán mới. Ra sức củng cố, tăng cường công tác kiểm soát, nâng cao chất lượng nghề nghiệp, đạo đức hành nghề của nguồn nhân lực cũ.
Đây là chiến lược đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của ngành kiểm toán độc lập của nước ta trong những năm đến bởi lẽ yếu tố con người luôn luôn là yếu tố mang tính quyết định. Mục tiêu cuối cùng của chiến lược này đó là nhằm tạo ra một đội ngũ nhân viên, quản lý đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng chuyên môn.
- Thứ hai, chiến lược phát triển và mở rộng thị trường
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là chúng ta phải hết sức tận dụng sự năng động và hiểu biết về chuyên môn của đội ngũ nhân viên với các cơ hội từ sự ổn định của thể chế chính trị, sự khuyến khích đầu tư, sự thuận lợi trong các chính sách và quy định của luật pháp về kiểm toán; kết hợp với xu thế đòi hỏi công khai hóa, minh bạch hóa tình hình tài chính cũng như phát triển các dịch vụ tư vấn trong xã hội để khai thác các khách hàng tại các “thị trường mới”
+ Đối với các khách hàng trong nước : các công ty kiểm toán độc lập cần khai thác thêm các đối tượng khách hàng thuộc diện “khách thể tự nguyện” theo quy định hiện nay của pháp luật như loại hình các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn…Đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ tư vấn đặc biệt là tư vấn về kế toán, thuế, kiểm soát…cho các đối tượng này
+ Đối với khách hàng nước ngoài : các công ty kiểm toán cần khai thác nhu cầu sử dụng các dịch vụ của từng đối tượng khách hàng nước ngoài theo vị trí lãnh thổ, theo ngành nghề kinh doanh trong đó đặc biệt chú trọng đến việc cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ tư vấn nguồn nhân lực, tư vấn pháp luật…trong các giai đoạn trước, trong và sau khi đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với các công ty kiểm toán đủ năng lực cần mạnh dạn triển khai việc mở rộng thị trường kinh doanh, cung cấp dịch vụ sang các nước trong khối ASEAN như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar ….Chiến lược này sẽ phát huy được hiệu quả khi bản thân các công ty kiểm toán tận dụng triệt để và khai thác được các thể mạnh của mình về năng lực tài chính, hoạt động marketing và đầu tư công nghệ, kỹ thuật kết hợp với nguồn nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng chuyên môn.
- Thứ ba, chiến lược liên doanh, sát nhập và trở thành thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế có uy tín
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần đánh giá lại đúng năng lực hoạt động của công ty mình, xem xét sự tác động của nhiều yếu tố trong đó đặc biệt xem trọng yếu tố về sự cạnh tranh của các đối thủ và các mối đe dọa khác từ bên trong và bên ngoài để có định hướng liên kết, liên doanh, sát nhập lại với nhau thành các công ty kiểm toán lớn. Qua đó các điểm yếu của các công ty kiểm toán nhỏ có thể được khắc phục và triệt tiêu, nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của ngành kiểm toán.
Bên cạnh đó, các công ty kiểm toán độc lập cũng phải nỗ lực để thực hiện các tiêu chuẩn, mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đáp ứng được các yêu cầu trở thành đại diện, thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế trên thế giới.
Thực tế cho thấy trên thị trưởng kiểm toán thế giới, Big Four ra đời, tồn tại và phát triển bền vững như hiện nay đó cũng là kết quả của việc thực thi chiến lược sát nhập, liên kết. Tại Việt Nam chúng ta cũng vậy trong năm 2010, đã có 8 công ty kiểm toán sát nhập lại thành 4 công ty kiểm toán mới. [8] Diễn biến này cho thấy, ngành kiểm toán độc lập chúng ta trong giai đoạn hiện nay cần phải có những định hướng và quy định chặt chẽ về điều kiện được liên doanh, liên kết, sát nhập và điều kiện đăng ký trở thành thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế.
- Thứ tư, chiến lược đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, quy trình kiểm toán
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần tận dụng ưu thế phát triển của công nghệ thông tin, kỹ thuật trong những năm gần đây kết hợp với thế mạnh về năng lực tài chính, nhân sự, hoạt động nghiên cứu để thực hiện việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ và quy trình kiểm toán. Các công ty cần trang bị phương tiện làm việc hiện đại cho nhân viên, ứng dụng công nghệ mới để xây dựng các cơ sở dữ liệu khách hàng, ứng dụng các phần mềm kiểm toán trong chọn mẫu, đánh giá rủi ro, thu thập bằng chứng từ dữ liệu mềm của khách hàng.
- Thứ năm, chiến lược đa dạng hóa các “sản phẩm”
Nội dung chủ đạo của chiến lược này đó là các công ty kiểm toán cần tận dụng điểm mạnh về năng lực tài chính, kiểm soát chất lượng, đội ngũ nhân viên, kỹ thuật và công nghệ của mình kết hợp với xu thế về minh bạch hóa tình hình tài chính và nhu cầu tư vấn của khách hàng, sự bảo hộ và khuyến khích của pháp luật…để phát triển đa dạng các sản phẩm của mình trong quá trình kinh doanh. Qua đó vừa nâng cao năng lực cạnh tranh vừa góp phần làm tăng doanh thu cho công ty.
Cụ thể hiện nay đối với dịch vụ kiểm toán đại bộ phận các công ty kiểm toán chủ yếu mới chỉ cung cấp dịch vụ kiểm toán tài chính, trong khi đó các dịch vụ về kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động còn chưa được chú trọng đúng mức mặc dù nhu cầu của các doanh nghiệp và tổ chức về các vấn đề này lại ngày càng tăng cao.
Đối với dịch vụ tư vấn, các công ty kiểm toán cần phát triển các “sản phẩm” mới đó là các dịch vụ tái cơ cấu doanh nghiệp; dịch vụ tư vấn marketing, PR; dịch vụ tư vấn lập phương án kinh doanh….bên cạnh các dịch vụ đã có như tư vấn thuế, nhân lực, thẩm định giá…
Trên đây là những hoạch định cơ bản liên quan đến các chiến lược phát triển trọng tâm của ngành kiểm toán độc lập ở nước ta trong những năm sắp đến. Để thực hiện được các chiến lược này cần phải có những giải pháp đồng bộ đối với các cấp, ban ngành, các công ty kiểm toán có liên quan. Cụ thể như sau :
4. Một số các giải pháp nhằm thực thi các chiến lược phát triển ngành trong bối cảnh hội nhập
- Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán
Đối với các ngành nghề nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng, thì khung pháp lý là cơ sở cực kỳ quan trọng để ngành tồn tại và phát triển. Do vậy giải pháp ưu tiên hàng đầu hiện nay để có thể thực thi các chiến lược phát triển ngành với hiệu quả cao nhất là giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng. Theo quan điểm cá nhân, cần thực thi những điểm chính như sau :
+ Các cơ quan quản lý và các nhà chuyên môn về lập pháp cần kỹ lưỡng hơn trong việc phê duyệt dự thảo Luật kiểm toán độc lập. Đối với các nước có ngành kiểm toán độc lập thì việc 20 năm chưa có văn bản pháp lý cao nhất đủ tầm điều chỉnh các hoạt động trong ngành đó quả là quãng thời gian khá dài. Trong nội dung của Luật kiểm toán độc lập cần cân nhắc đến mô hình hoạt động với các hình thức sở hữu khác nhau mà theo quan điểm của cá nhân, chúng ta cần xem xét chấm dứt hoạt động đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn; cho phép có sự hiện diện của thể nhân trong lĩnh vực kiểm toán cho phù hợp với thông lệ và xu thế phát triển chung của thế giới và của cả Việt Nam những năm tới đây. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần chú trọng đến các quy định liên quan đến kiểm toán viên, công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, trách nhiệm đối với báo cáo kiểm toán.
+ Cần rà soát lại hệ thống các văn bản dưới luật như nghị định, quyết định, thông tư có liên quan đến kiểm toán độc lập. Bộ Tài Chính hoặc hiệp hội nghề nghiệp cũng cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các thông tư hướng dẫn một số các chuẩn mực kiểm toán quan trọng trong số 38 chuẩn mực ở thời điểm hiện tại như VSA 320, 400, 230…
+ Bộ Tài Chính nên tiến đến chuyển giao toàn bộ trách nhiệm quản lý nghề nghiệp như soạn thảo các chuẩn mực, cấp chứng chỉ kiểm toán viên …cho hiệp hội. Điều này góp phần làm giảm thiểu sự can thiệp và bảo hộ quá lớn của Nhà nước đối ngành kiểm toán trong nền kinh tế thị trường, đồng thời phù hợp với thông lệ chung của các quốc gia khác trên thế giới.
+ Bộ Tài Chính và Hiệp hội cũng cần tổ chức hiệp thương các công ty kiểm toán và qua đó ban hành các quy định về khung giá phí đối với các lĩnh vực và dịch vụ mà công ty kiểm toán cung cấp tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty trong ngành.
+ …
- Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực kiểm toán
+ Bộ Tài chính và hiệp hội nên xây dựng một quy trình đánh giá và cấp chứng chỉ hành nghề mới cho phù hợp với thực trạng của thị trường lao động hiện nay. Bởi lẽ theo quy định hiện tại như một số tác giả khác đã nghiên cứu vẫn còn nhiều điểm bất cập về điều kiện dự thi, quy trình thực hiện…[7]
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nguồn nhân lực kiểm toán trong xu thế hiện nay. Cụ thể Bộ Tài chính và hiệp hội cần khuyến khích các công ty kiểm toán mạnh dạn mở các trung tâm và cơ sở đào tạo để tạo ra nguồn cung lớn về nhân lực cho ngành kiểm toán. Đồng thời có kế hoạch liên kết với các trường đại học có uy tín để thực hiện quá trình đầu tư, ươm mầm cho các sinh viên có năng khiếu và sở thích về kiểm toán.
+ Nên xem xét việc yêu cầu các công ty kiểm toán bắt buộc trích lập quỹ khoa học công nghệ phục vụ cho mục đích đào tạo, nghiên cứu, trang bị kỹ thuật và công nghệ mới cho nhân viên của mình trong quá trình cung cấp dịch vụ.Tăng cường công tác học tập, trao đổi kinh nghiệm về quản lý, về thực hiện dịch vụ kiểm toán và tư vấn với các tổ chức, đối tác ở trong và ngoài nước.
+ Cần xây dựng và ban hành một lộ trình cải cách về chính sách tiền lương, thu nhập thỏa đáng đối với những người làm việc trong lĩnh vực kiểm toán. Qua đó giảm thiểu tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra ồ ạt như hiện nay.
+…
- Thứ ba, tăng cường năng lực tài chính, hoạt động nghiên cứu cải tiến kỹ thuật công nghệ, hoạt động marketing
+ Các công ty kiểm toán có quy mô nhỏ nên thực hiện việc liên kết và sát nhập lại với nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải tiến kỹ thuật công nghệ, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán
+ Bộ Tài Chính, Hiệp hội cũng cần có quy định và hướng dẫn chi tiết, bắt buộc về việc trích lập lợi nhuận sau thuế để cải thiện vốn, gia tăng quy mô kinh doanh và năng lực tài chính của công ty. Có định hướng phát triển mạnh hình thức hợp danh để huy động các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào công ty kiểm toán
+ Đẩy mạnh hoạt động PR, marketing giới thiệu về thương hiệu, sản phẩm của công ty kiểm toán thông qua các cuộc hội thảo, chuyên đề, các khóa đào tạo ngắn hạn về kiểm toán. Thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh để tăng cường công tác quảng bá, tiếp thị hình ảnh và thu hút khách hàng cho công ty.
+ Rà soát, đánh giá và thực hiện việc điều chỉnh, cải tiến quy trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng của công ty đặc biệt là từng bước, từng kỹ thuật trong các giai đoạn và quy trình kiểm toán, tư vấn.
+ Tăng cường công tác tham quan, học tập, tiếp thu kinh nghiệm và kỹ thuật công nghệ ở các công ty kiểm toán uy tín ở nước ngoài. Thành lập phòng nghiên cứu và phát triển (R&D) để phát triển các loại hình dịch vụ, các sản phẩm mới của công ty đáp ứng nhu cầu thị trường.
+ …
Nói tóm lại, thông qua việc phân tích các điểm mạnh, điểm yếu cũng như các cơ hội và đe dọa đối với sự phát triển của ngành kiểm toán độc lập những năm qua, chúng ta có thể thấy được sự cần thiết phải có các chiến lược phát triển ngành trong những năm sắp đến trong bối cảnh hội nhập. Việc thực thi và cụ thể hóa nội dung của các chiến lược song song với hệ thống các giải pháp thiết thực đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu và quan tâm đúng mức của không chỉ các nhà quản lý ở tầm vĩ mô mà còn là trách nhiệm của các công ty kiểm toán, các cơ sở đào tạo và của cả xã hội. Điều này thực sự cần thiết và hết sức ý nghĩa khi chúng ta đang dần tiến đến thời điểm kỷ niệm 20 năm ngày thành lập ngành kiểm toán độc lập ở Việt Nam (5/2011) ./.
-----------------------------------------
Tài liệu tham khảo :
1. Hugh.Adam, Đỗ Thùy Linh (2005), Hội nhập với các nguyên tắc kế toán và kiểm toán quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Bộ Tài Chính (2001), Hội nghị tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập 1991-2001, Hà Nội
3. Bộ Tài Chính (2006), Hội nghị tổng kết 15 năm hoạt động kiểm toán độc lập 1991-2006, Hà Nội
4. Lê Hoài Phương (2006), Định hướng chiến lược phát triên ngành kiểm toán độc lập Việt Nam đến năm 2015, Luận văn Thạc sỹ, ĐH Kinh tế TPHCM
5. Phan Thanh Hải, Rủi ro của các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam-Nhận diện và giải pháp giảm thiểu, Tạp chí Kế toán, số 81, 12/2009
6. Phan Thanh Hải, Giải pháp nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của dịch vụ kiểm toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Tạp chí kiểm toán, số 12/2010
7. Hà Thị Ngọc Hà, Quy định mới về điều kiện dự thi KTV và các nội dung cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, Tạp chí kiểm toán, số tháng 1/2011
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: