VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC TRONG CÁC QUYẾT ĐỊNH VỀ GIÁ BÁN SẢN PHẨM
Th.S Lê Thị Huyền Trâm, Giảng viên khoa Kế toán, Đại học Duy Tân
TÓM TẮT:
Kế toán quản trị chiến lược (SMA) là hệ thống thông tin kế toán quản trị được dùng để hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định mang tính chiến lược khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng. Hiện nay, môi trường kinh doanh đã mở rộng đến thị trường thế giới, làm cho các doanh nghiệp (DN) phải chịu sức ép cạnh tranh trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhiều thông tin về quản trị hơn để có thể xây dựng chiến lược cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả. Vai trò, trách nhiệm của kế toán quản trị đang được mở rộng, bao hàm cả các nhu cầu đối với quá trình ra quyết định chiến lược kinh doanh như: Các quyết định liên quan về kiểm soát, về sự thay đổi chi phí, về giá, chiết khấu và sản phẩm… Tuy nhiên, hiện nay, kế toán quản trị chưa được coi trọng đúng mức trong phần lớn doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, khung khổ pháp lý về lĩnh vực này còn nhiều hạn chế. Bài viết này phân tích vấn đề ứng dụng kế toán quản trị chiến lược trong quá trình ra quyết định liên quan đến giá bán sản phẩm nhằm đóng góp vào việc cung cấp dữ liệu cho việc quản trị chiến lược của nhà quản trị trong DN.
Từ khóa: Kế toán quản trị chiến lược, doanh nghiệp, giá bán.
1. Đặt vấn đề
2. Giới thiệu về Kế toán quản trị chiến lược
Như vậy có thể hiểu KTQTCL là việc thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu KTQT về DN, đối thủ cạnh tranh và khách hàng, nhằm sử dụng cho việc phát triển và giám sát chiến lược kinh doanh của DN.
3. Vai trò của kế toán quản trị chiến lược
4. Ứng dụng kế toán quản trị chiến lược về giá bán sản phẩm trong doanh nghiệp
Định giá bán sản phẩm có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Do vậy các nhà quản trị DN thường coi đây là nhiệm vụ quan trọng,
có tính sứ mệnh lịch sử ảnh hưởng đến các nhiệm vụ khác. Trước hết việc đưa ra giá
bán sản phẩm tác động tới mức doanh thu và lợi nhuận của DN, giá bán cao tạo ra
mức lợi nhuận lớn, giá bán thấp đó là sự thiệt hại của DN. Song giá bán lại bị giới
hạn bởi cầu của thị trường và tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy đưa ra giá bán
phù hợp là vấn đề không đơn giản đối với nhà quản trị. Chính vì thế, nhà quản trị cần
xây dựng giá bán phải thật khoa học, vừa phù hợp với nhu cầu của thị trường và đảm
bảo lợi nhuận tối đa.
Một là, truyền đạt thông tin có ảnh hưởng liên quan đến giá bán và chiết khấu sản phẩm
Giá bán sản phẩm của DN là một phạm trù kinh tế có tính lịch sử, song nó thể
hiện trình độ tổ chức và quản lý các yếu tố sản xuất của các nhà quản trị. Do vậy để
đưa ra giá bán phù hợp, yêu cầu nhà quản trị phải am hiểu về kế toán chi phí, doanh
thu và lợi nhuận, tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, môi trường kinh
doanh. Định giá bán sản phẩm có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vì nó tác động tới mức doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp (giá bán cao tạo ra mức lợi nhuận lớn, giá bán thấp thì có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp). Định giá bán sản phẩm dựa trên chi phí là phương pháp phổ biến nhất trong tất cả các doanh nghiệp và có nguồn gốc lịch sử lâu đời. Chi phí sản xuất ra sản phẩm là yếu tố có tính chất quyết định trực tiếp tới kết quả và hiệu quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp, đó là nhân tố để doanh nghiệp tồn tại và phát triển như thế nào trên thị trường. Do vậy, chỉ cần sự thay đổi đáng kể của chi phí, các nhà quản tri lại có quyết định định giá mới.
Xem xét trường hợp tại một doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm X, dự kiến mức tiêu thụ trong một năm là 10.000 sản phẩm, các số liệu liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ dự kiến như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: 9.000 đồng/sản phẩm
- Chi phí nhân công trực tiếp: 8.000 đồng/sản phẩm
- Biến phí sản xuất chung: 6.000 đồng/ sản phẩm
- Biến phí bán hàng và quản lý: 3.000 đồng/sản phẩm
- Tổng định phí sản xuất chung: 70.000.000 đồng
- Tổng định phí bán hàng và quản lý: 20.000.000 đồng
- Tỷ lệ hoàn vốn mong muốn (ROI): 20%
- Vốn hoạt động bình quân: 500.000.000 đồng
Giá bán sản phẩm được xác định gồm 2 yếu tố là chi phí nền và số tiền cộng thêm, chi phí nền bao gồm toàn bộ chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và phần tiền bù đắp các khoản chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Theo đó ta xác định:
+ Chi phí nền = CPSX/1sp = 30.000 đồng/ sp
+ Mức lợi nhuận mong muốn = 20% x 500.000.000 đồng = 100.000.000 đồng
+ Tỷ lệ số tiền cộng thêm là 50%
+ Giá bán sản phẩm: 30.000 + (30.000 x 50%) = 45.000 đồng/ sp
Theo phương pháp định giá bán cộng thêm dựa vào chi phí toàn bộ, giá bán trong trường hợp này là 45.000 đồng/sản phẩm. Nếu yếu tố chi phí nguyên vật liệu thay đổi 10% thì giá bán sản phẩm sẽ tăng tương ứng 10%. Điều này có nghĩa là chi phí là cơ sở quan trọng để ra quyết định về cơ cấu mặt hàng cần sản xuất cũng như sản lượng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường.
Hai là, phân tích các thông tin tác động đến việc xác lập giá bán
Cùng với việc phân tích các nhân tố bên trong liên quan đến việc định giá đó chính là chi phí, doanh nghiệp cũng cần phải phân tích các yếu tố tác động đến giá bán và những ảnh hưởng từ bên ngoài như là nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm doanh nghiệp đang sản xuất.
Nhu cầu của thị trường là yếu tố quan trọng tác đông đến DN. Cung cầu chi
phối đến giá của một hàng hoá thể hiện thông qua mức giá cân bằng. Giá cân bằng
là mức giá mà tại đó lượng sản phẩm người mua muốn mua đúng bằng lượng sản
phẩm người bán muốn bán. Do vậy để đưa ra quyết định giá bán có độ tin cậy cao,
các nhà quản trị thường phải nắm bắt các thông tin về số lượng khách hàng có nhu
cầu, mức thu nhập của khách hàng, số lượng các sản phẩm cùng loại trên thị trường
và khối lượng các sản phẩm của từng nhà cung cấp tung ra thị trường. Các nhà quản
trị cũng cần dự đoán xu hướng vận động nhu cầu của thị trường để đưa ra các quyết
định định giá bán sản phẩm đúng thời điểm nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Ba là, tính cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên thị trường
Đây là nhân tố rất quan trọng trong các quyết định về giá bán sản phẩm của
các nhà quản trị. Đối với các sản phẩm độc quyền bán, nhà quản trị có thể định giá
bán sản phẩm cao nhằm thu tối đa lợi nhuận. Đối với các sản phẩm cạnh tranh nhà
quản trị đưa ra giá bán phù hợp vì nếu giá bán cao quá sẽ không tiêu thụ được, hoặc
giá bán thấp quá, DN sẽ mất đi một mức lợi nhuận. Do vậy các nhà quản trị cần
nghiên cứu yếu tố cạnh tranh trên thị trường thông qua những điểm sau: uy tín và vị
thế của doanh nghiệp hiện tại, chiến lược dài hạn của DN như thế nào, các chỉ tiêu
tài chính đã minh bạch trên thị trường chứng khoán ra sao…
Bốn là, phân tích các thông tin thích hợp liên quan đến quá trình định giá bán sản phẩm
Phân tích các thông tin liên quan đến giá bán sản phẩm được xem xét cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Trong ngắn hạn, thông tin về các khoản chi phí phù hợp liên quan đến việc xác lập mức giá bán cho sản phẩm được sử dụng để kết hợp sản phẩm tối đa hóa lợi nhuận và loại bỏ các sản phẩm kinh doanh thua lỗ. Giá nên được thiết lập bằng cách sử dụng phương pháp định giá dựa trên chi phí trực tiếp, trong đó chi phí cố định được giả định là không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi từ quyết định giá cả.
Trong dài hạn, hầu hết các doanh nghiệp đều dựa vào toàn bộ chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định giá bán mục tiêu hay giá bán tiêu chuẩn, từ đó có thể điều chỉnh tăng giá hoặc giảm giá tùy thuộc vào tình hình cầu hàng hóa.
Có một số trường hợp đặc biệt mọi DN phải xét tới khi định giá như DN có thể nhận
được đơn đặt hàng có số lượng nhiều, hoặc đơn đặt hàng từ nước ngoài hay doanh
nghiệp đang hoạt động trong những điều kiện sau:
- DN đang còn năng lực nhàn rỗi muốn mở rộng lợi nhuận
- DN đang gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ
- DN phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh
- DN phải đấu thầu để giành hợp đồng kinh doanh.
Những trường hợp này DN phải đưa ra quyết định giá đặc biệt. Trong hai cách
định giá bán sản phẩm sản xuất hàng loạt là định giá bán sản phẩm SX theo chi phí
trực tiếp và theo chi phí toàn bộ thì định giá bán theo chi phí trực tiếp linh hoạt hơn
vì nó có những ưu điểm:
+ Cung cấp cho người lập giá nhiều thông tin chi tiết hơn so với cách tính theo
chi phí toàn bộ.
+ Thông tin được cung cấp phù hợp với mối quan hệ CVP, thích hợp cho việc
lựa chọn các quyết định.
+ Nhấn mạnh đến số dư đảm phí, cung cấp cho nhà quản trị một phạm vi linh
hoạt, có thể đưa ra quyết định nhanh về giá mà không cần phải phân tích thêm, không
phải làm một số công việc nghiên cứu các tài liệu chi phí để có thêm thông tin như
cách tính toàn bộ.
Xét trường hợp ở công ty B đang sản xuất kinh doanh mặt hàng X như sau:
ĐVT: 1.000 đồng
Chỉ tiêu |
Chi phí đơn vị |
1. Biến phí nguyên vật liệu trực tiếp |
10 |
2. Biến phí nhân công trực tiếp |
5 |
3. Biến phí sản xuất chung |
3 |
4.Chi phí hoa hồng bán hàng |
1 |
5. Khấu hao tài sản cố định dung sản xuất |
12.000 |
6. Khấu hao tài sản cố định dùng để bán hàng |
10.000 |
7. Chi phí giao tế, tiếp khách |
8.000 |
Năng lực sản xuất của công ty 1000 sản phẩm. Hiện thời, công ty đang sản
xuất và tiêu thụ bình quân trong kỳ 800 sản phẩm với giá bán 60.000đ/sản phẩm.
Một khách hàng yêu cầu công ty bán 100 sản phẩm (ngoài số sản phẩm kinh doanh
hằng kỳ) với giá bán 40.000đ/sản phẩm. Công ty có nên bán hay không ?
Theo mô hình định giá theo chi phí trực tiếp, với giá bán 40.000đ/sản phẩm,
công ty sẽ tạo thêm mức dư đảm phí :100 x (40.000 – 19.000) =1.100. Đây cũng là
mức lợi nhuận gia tăng thêm cho công ty.
Nếu chúng ta áp dụng mô hình tính giá đặc biệt trong trường hợp công ty còn
thừa năng lực:
Giá bán > Biến phí sản xuất kinh doanh
Giá bán > 19.000đ/sản phẩm
Vậy, với giá bán 40.000đ/sản phẩm công ty vẫn thực hiện được vì mức giá này
giúp công ty gia tăng thêm một khoản lợi nhuận.
5. Kết luận
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì ngoài những cơ hội để phát triển thì các DN vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi các nhà quản trị trong DN cần phải thu thập các thông tin về giá, truyền đạt các thông tin liên quan đến việc xác lập giá, phân tích các nhân tố tác động đến giá bán để xác lập một mức giá phù hợp cho sản phẩm. Việc ứng dụng kế toán quản trị chiến lược trong định giá bán sản phẩm sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc ra quyết định chiến lược, qua đó giúp DN có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng tới việc phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay.
-----------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
[1] Hoàng Khánh Vân (2016), Thông tin chi phí trong định giá bán của doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính kỳ II, số tháng 7/2016
[2] Trần Hồng Vân, Trần Thị Phương Lan (2020), Mức độ vận dụng SMA trong các DN Việt Nam, Tạp chí Công thương số 19, tháng 8/2020.
[3] Bromwich, M. (1990), “The Case for Strategic Management Accounting: The Role of Accounting information for Strategy in Competitive Markets”, Accounting Organizations and Society, Vol. 15 No.1/2, pp. 27-46;
[4] Cadez, S. And Guilding, C. (2008), “An Exploratory investigation of An Integrated Contingency Model of Strategic Management Accounting”, Accounting, Organizations and Society, 28 (2-3); 127-168.
[5] https://tapchitaichinh.vn/ung-dung-ke-toan-quan-tri-chien-luoc-trong-cac-quyet-dinh-ve-gia-ban-san-pham.html
» Danh sách Tập tin đính kèm:
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: