QUY TRÌNH XỬ LÝ TÀI SẢN ĐẢM BẢO NỢ VAY TẠI CÁC CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG - TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Thạc sỹ Mai Thị Quỳnh Như
Khoa Kế toán- Trường đại học Duy Tân
182 Nguyễn Văn Linh – Thành phố Đà Nẵng.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời với mức độ tăng trưởng đó nhu cầu vốn cần thiết cho nền kinh tế là rất lớn. Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam năng lực tài chính còn hạn chế và hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay ngân hàng. Một số các doanh nghiệp có năng lực tài chính ở mức khá vẫn sử dụng vốn tín dụng ngân hàng như là đòn bẩy tài chính để phát triển kinh doanh. Từ đó có thể khẳng định tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay đã và đang còn tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp. Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của các ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro mà chủ yếu là nguy cơ mất vốn, chính vì thế giải pháp cứu cánh hiện nay cho các ngân hàng là hầu hết doanh nghiệp bắt buộc phải có tài sản đảm bảo nếu muốn sử dụng vốn vay.
Bài viết trọng tâm đi vào 3 nội dung chính như sau:
- Sự cần thiết của tài sản đảm bảo (TSĐB) đối với các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong qúa trình cho vay vốn.
- Quy trình xử lý TSĐB và những vấn đề còn tồn tại.
- Các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong quy trình xử lý TSĐB.
1. Sự cần thiết của TSĐB đối với các NHTM trong quá trình cho vay vốn
Việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp thường được dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá năng lực tài chính và cả sự tin tưởng vào doanh nghiệp. Khi cho vay các NHTM luôn kỳ vọng khách hàng sẽ lựa chọn được phương án đầu tư có hiệu quả để có thể hoàn trả cả vốn và lãi cho ngân hàng theo đúng thời hạn quy định. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy khi mà thị trường tài chính tại Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, tình trạng đầu cơ còn diễn ra phổ biến, các doanh nghiệp chưa thực sự kỷ luật đối với dòng tiền kinh doanh của mình dẫn đến việc sử dụng vốn sai mục đích. Một nguyên nhân nữa là khi những yếu tố như: uy tín, thương hiệu của khách hàng trên thị trường chưa được đánh giá một cách đúng đắn hay trình độ và khả năng phân tích đánh giá tình hình tài chính của các cán bộ tín dụng ở các NHTM đối với khách hàng còn hạn chế, chưa đủ sự tự tin để đưa ra kết luận một cách độc lập, có độ tin cậy cao...
Đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng thì vấn đề này càng khó khăn hơn, cho nên để có cơ sở chắc chắn đảm bảo thu hồi nợ và lãi trong quá trình cho vay thì các tổ chức tín dụng Việt Nam xem xét những gì hiện hữu nhất. Đó chính là các tài sản hữu hình mà chủ yếu là tài sản cố định dùng để đảm bảo cho các khoản nợ vay.Việc cấp tín dụng sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều nếu nó được đảm bảo bằng tài sản, nhất là các loại tài sản có tính thanh khoản và giá trị cao. Việc quản lý các loại tài sản cũng sẽ dễ dàng hơn khi các tổ chức tín dụng nắm giữ tài sản hoặc giữ những giấy tờ sở hữu chúng và được nhà nước xác nhận. Đây chính là nguyên giải thích tại sao các tổ chức tín dụng coi TSĐB là yếu tố quan trọng rất quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của mình.
Khi tài sản được thế chấp, cầm cố tại các tổ chức tín dụng, nếu khoản vay của doanh nghiệp đầu tư hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận và xảy ra rủi ro thì người vay sẽ bị phát mãi tài sản để thu hồi nợ vay. Chính vì vậy doanh nghiệp phải thận trọng hơn khi thực hiện quyết định đầu tư của mình. Nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không có khả năng trả nợ thì điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc giải quyết các khoản nợ xấu. Vì vậy thực tế đang diễn ra là các tổ chức tín dụng xem việc thẩm định TSĐB là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất trong quyết định cấp tín dụng của mình. Trong điều kiện thị trường tài chính chưa đạt được độ hoàn hảo cần thiết, TSĐB là cơ chế tốt nhất để giảm thiểu lựa chọn bất lợi nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam.(1)
2. Quy trình xử lý TSĐB tại các NHTM và những vấn đề còn tồn tại
- Nguyên nhân các NHTM phải xử lý TSĐB của khách hàng
Trên thực tế, các NHTM không bao giờ muốn xử lý TSĐB của khách hàng, bởi vì khi xử lý TSĐB có nghĩa là món vay đó không có hiệu quả. Tuy nhiên hoạt động cho vay của các ngân hảng không phải lúc nào cũng được tiến hành một cách thuận lợi mà có những trường hợp các NHTM bắt buộc phải xử lý TSĐB của khách hàng, vấn đề này xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, trong quá trình thẩm định trừ một số ít khách hàng có hoạt động kinh doanh không hiệu quả bắt nguồn từ các nguyên nhân như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định hời hợt, quá trình kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay không chặt chẽ và công tác kiểm tra sau cho vay không được thực hiện đầy đủ của cán bộ tín dụng dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích khác như: sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, buộc NHTM phải phát mãi tài sản của khách hàng.
Thứ hai, là nguồn cung cấp thông tin, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. (2)
- Quy trình chung về xử lý TSĐB tại các ngân hàng thương mại
Nghị định 163/2006/NĐ - Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ - Chính phủ ban hành 22/2/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý TSĐB, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và người đi vay. Có thể khái quát quy trình xử lý TSĐB tại các NHTM theo sơ đồ như sau:
Thực tế về xử lý TSĐB ở các NHTM hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là: TSĐB là động sản và TSĐB là bất động sản.
Với TSĐB là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu (máy móc, dây chuyền sản xuất...) thì theo hai Nghị định trên, chỉ cần căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà ngân hàng và người vay đã ký kết, ngân hàng được phép bán qua đấu giá, thu hồi vốn; nếu còn thừa tiền thì chuyển thẳng vào tài khoản cho khách hàng là xong.
Với TSĐB là bất động sản (đất, tài sản trên đất...) thì do các tài sản này đòi hỏi phải đăng ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điều chỉnh nhiều bộ luật khác. Giả định, khách hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ.
Ngân hàng có thể mang ra tòa nhưng khác với tòa hình sự, hầu hết tội danh đều được quy định khung hình phạt rất rõ trong luật nên dù chưa xử, ở một chừng mực nào đó, vẫn có thể hình dung được bản án ở mức nào. Nhưng với tòa dân sự thì không như vậy, có khi một vụ việc nhưng phán quyết ở hai tòa rất khác nhau, thậm chí đối lập(3)
- Những tồn tại trong quy trình xử lý TSĐB
Trong quá trình xử lý TSĐB nợ vay không ít các NHTM gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các vấn đề như sau:
Thứ nhất, sự phối hợp của khách hàng khi thực hiện bàn giao tài sản trên thực tế và thực hiện thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành để xử lý TSĐB. Vấn đề này thực sự rắc rối nếu quá trình thẩm định của cán bộ tín dụng không tiến hành một cách kỹ lưỡng dẫn đến các vấn đề phát sinh khi xử lý tài sản, chẳng hạn như khi thẩm định tài sản, cán bộ tín dụng ngân hàng không điều tra xem cá nhân nào đang sinh sống tại nơi có tài sản thế chấp, mối quan hệ với bên vay vốn như thế nào. Có nhiều trường hợp tài sản được bên vay vốn thế chấp tuy nhiên bên vay vẫn còn nghĩa vụ nợ đối với cá nhân đang sinh sống tại tài sản thế chấp, đến khi xảy ra quá hạn xử lý tài sản thì mới phát hiện ra…, đây chỉ là một trường hợp điển hình trong rất nhiều trường hơp dẫn đến việc tranh chấp khiến cho Ngân hàng không xử lý được TSĐB.
Thứ hai, việc áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh và sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan: phòng công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, UBND địa phương. Hiện tại trên địa bàn thành phố, tại một số phòng công chứng tư vì cạnh tranh và phục vụ khách hàng đang có sự linh động một số trường hợp hồ sơ đi công chứng thiếu một số chứng từ pháp lý dẫn đến hồ sơ chưa hoàn thiện, cán bộ tín dụng cam kết bổ sung tuy nhiên thời gian kéo dài dẫn đến rủi ro pháp lý đối với hồ sơ thế chấp TSĐB.
Thứ ba, khi xử lý TSĐB là bất động sản theo phương thức bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản hoặc bên bảo đảm bán tài sản thông qua bán đấu giá hay không thông qua bán đấu giá thì khi thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng mua bán/chuyển nhượng một số phòng công chứng yêu cầu phải có thông báo giải chấp của bên nhận bảo đảm. Một số phòng công chứng yêu cầu phải thực hiện thủ tục xóa đăng ký giao dịch bảo đảm tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (4)
Thứ tư, trong thực tế việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của các NHTM cũng gặp nhiều vướng mắc. Về xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa TCTD và bên bảo đảm, Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã quy định nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm thực hiện theo thỏa thuận của các bên, nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá. Tuy nhiên, trong thực tế, việc TCTD tự xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận gặp nhiều khó khăn do các trình tự, thủ tục xử lý còn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của bên bảo đảm, bên giữ tài sản, TCTD chưa được toàn quyền xử lý tài sản bảo đảm trong khuôn khổ pháp luật và việc xử lý tài sản đảm bảo vẫn gặp nhiều khó khăn do không chỉ do ý thức chây ỳ của con nợ mà còn ở cả lỗi từ ngân hàng.
Điển hình chỉ trong vòng một tháng, ngân hàng NVB đã ký 5 khế ước vay đối với một khách hàng (chưa từng quan hệ tín dụng với ngân hàng) với tổng giá trị gần 5 tỷ đồng, TSĐB là các sổ đỏ mang tên khách hàng này. Sau khi người này bỏ trốn, ngân hàng mới nhờ cơ quan Công an can thiệp. Trong quá trình xác minh, cơ quan công an phát hiện khách hàng trên đã cho các hộ dân vay một số tiền rất nhỏ so với giá trị ngôi nhà, sau đó, lừa các hộ dân làm giấy chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất cho mình để mang thế chấp vay ngân hàng gần 5 tỷ đồng rồi bỏ trốn. (5)
- Ứng dụng khảo sát đối với một số NHTM trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Theo khảo sát về quy trình xử lý TSĐB của một số chi nhánh NHTM cổ phần trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thực tế cho thấy rằng: Việc xử lý TSĐB đã được thực hiện theo Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-Chính phủ ban hành 22/2/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163 và hiện tại các ngân hàng thực hiện công tác thẩm định tài sản tương đối chặt chẽ, việc quyết định cũng như xử lý tài sản thế chấp đều qua hai bước kiểm soát và phê duyệt.
Trước khi thực hiện công tác giải ngân, tài sản khách hàng thế chấp cho Ngân hàng đều được công chứng tại Hợp đồng thế chấp cầm cố tài sản các phòng công chứng (hiện tại trên địa bàn thành phố một số Ngân hàng còn chặt chẽ hơn với quy định chỉ được công chứng tại phòng công chứng nhà nước chứ không công chứng tại phòng công chứng tư). Hợp đồng Công chứng sau khi công chứng xong được đăng ký giao dịch đảm bảo tại Quận nơi có TSĐB thế chấp cho Ngân hàng.
Trong quy định về xử lý tài sản, một số Ngân hàng còn ràng buộc điều khoản ủy quyền cho ngân hàng được toàn quyền xử lý mua bán giao dịch đối với tài sản của khách hàng, điều này làm cho việc phát mãi tài sản nếu khoản vay có rủi ro được dễ dàng hơn đối với ngân hàng. Tuy nhiên, yếu tố này cũng tạo tác động tâm lý khá tiêu cực đến khách hàng vay vốn.
3. Các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong quá trình xử lý TSĐB
Trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý về chế độ kế toán, kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy theo đúng qui chế cho vay. Thực trạng trên rất dễ dẫn đến nguy cơ trong quá trình cho vay là khiến các NHTM bị mất vốn, do đó khi cho vay có TSĐB có thể được xem là công cụ cần thiết để có thể hạn chế được tình trạng rủi ro này. Như thực tế cho thấy, khi xảy ra các vấn đề trong quy trình xử lý TSĐB đều gây này hưởng đến các bên có liên quan mà trực tiếp là các NHTM và người đi vay. Về phía các NHTM, nguy cơ mất vốn hoặc không hồi thu hồi được đầy đủ vốn đầu tư ban đầu là tình trạng thường gặp, về phía khách hàng là tình trạng mất uy tín và phá sản. Mặc dù vấn đề này đã được quy định rõ ràng trong Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ (29/12/2006) về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-Chính phủ (22/2/2012) về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163 nhưng xem ra thực tế lại không được như mong đợi của các Ngân hàng.
Trước tình hình trên, nhóm các giải pháp đươc đưa ra xem xét theo ý kiến của cá nhân người viết như sau:
+ Thứ nhất,việc đánh giá TSĐB cho món vay (bao gồm việc thẩm định điều kiện tài sản thế chấp, năng lực pháp lý của người thế chấp tài sản, định giá tài sản, tính thanh khoản của tài sản,…) là cần thiết trong tình hình hiện nay. Đặc biệt từ đầu năm 2012 sau khi Ngân hàng Nhà nước phân loại 4 nhóm Ngân hàng với các tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tương ứng là 17%, 15%, 8%, 0% thì đương nhiên sẽ dần dần có sự dịch chuyển khách hàng từ các NHTM nhóm 3, 4 về các NHTM nhóm 1, 2. Và như vậy, hơn lúc nào hết cần phải đề cao vai trò của tài sản đảm bảo từ việc tuân thủ tỷ lệ xác định cho vay tối đa do Hội sở qui định, chẳng hạn như: thẩm định vị trí, tính thanh khoản của quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, hạn chế hoặc từ chối tài sản đảm bảo là hàng hóa, máy móc thiết bị khó quản lý, thanh khoản thấp,…
+ Thứ hai trong Nghị định đã ban hành về giao dịch đảm bảo nên hướng dẫn rõ ràng các thủ tục xử lý TSĐB một cách thống nhất đối với các bên có liên quan. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với hình thức pháp lý của văn bản cũng như yêu cầu đặt ra. Không nên quy định quá chi tiết vào những nội dung thỏa thuận giữa các bên, bởi những nội dung như vậy không quy định thì các bên cũng đã tự thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm.
+ Thứ ba, xây dựnghệ thống cơ sở dữ liệu chungtrong cả nước về giao dịch bảo đảm giúp truy cập, đăng ký nhanh và cung cấp thông tin kịp thời về tài sản bảo đảm.Vấn đề tra cứu về tình trạng tài sản đảm bảo đang như thế nào, đang tranh chấp, kiện tụng hay đang trong quá trình xử lý nợ… tất cả thông tin khi được hệ thống hóa sẽ giúp cho ngân hàng có thêm thông tin trong quá trình thẩm định tài sản, do đó sẽ giảm thiểu đến mức tối đa rủi ro khi cấp tín dụng đối với khách hàng.
Trước thực trạng kinh tế hiện nay, các chủ trương của Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước về tái cơ cấu ngành, tái cơ cấu NHTM, chính sách tài chính tiền tệ… sẽ tác động đến hoạt động tín dụng của các NHTM. Dù trong tình huống nào thì các biện pháp an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng vẫn là tiêu chí quan trọng để tăng năng lực tài chính của NHTM. Với nhận thức đó, biện pháp về TSĐB trong cho vay hiện nay cần được coi trọng và đánh giá đúng mức để phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Tài liệu tham khảo:
(1):stocknews.vn/.../1/730_Taisaotaisandambao.pdf
(2):http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/07/070319.html
.(3):http://dantri.com.vn/kinh-doanh/kho-nhu-xu-ly-tai-san-bao-dam-647112.htm)
(4):http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/3-nut-that-khi-xu-ly-tai-san-bao-dam-2012113011234817ca34.chn)
(5):http://dantri.com.vn/kinh-doanh/kho-nhu-xu-ly-tai-san-bao-dam-647112.htm)
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: