QUAN ĐIỂM CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT
TS Phan Thanh Hải
Phó khoa Kế toán
Bài viết này trình bày về các quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) trong doanh nghiệp niêm yết trên cơ sở một số các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố.
Chất lượng phản ánh giá trị về mặt lợi ích của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và là khái niệm phức tạp, phụ thuộc vào trình độ của nền kinh tế và tuỳ những góc độ của người quan sát hay người sử dụng. Theo Từ điển Tiếng Việt “chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị một con người, một sự vật, sự việc”. Theo định nghĩa của TCVN 5200-ISO 9000 thì “Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc đặt trước của người mua”. Tuy nhiên, kiểm toán BCTC được coi là một loại hình dịch vụ đặc biệt mà sản phẩm cuối cùng của nó là các BCKiT- nơi trình bày ý kiến của KTV (công ty kiểm toán) về BCTC của doanh nghiệp. Với đặc trưng riêng của kiểm toán đối với BCTC của DNNY trên TTCK và đòi hỏi cao về tính minh bạch, cũng như mức độ ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán tới người sử dụng dịch vụ kiểm toán, dẫn đến quan điểm về chất lượng kiểm toán BCTC của DNNY cũng có đặc trưng riêng bên cạnh những quan điểm chung về chất lượng kiểm toán BCTC.
Khác với các sản phẩm, dịch vụ của các nghề nghiệp khác, chất lượng kiểm toán không dễ dàng quan sát hay kiểm tra, đánh giá. Thường có một khoảng cách nhất định về quan điểm hay mức độ thỏa mãn giữa người quản lý, người sử dụng và cung cấp dịch vụ tới chất lượng kiểm toán . Tuy nhiên, mặc dù chất lượng kiểm toán BCTC được quan sát theo các quan điểm khác nhau tùy thuộc góc nhìn của các đối tượng quan tâm, nhưng đều cùng mục tiêu là KTV đưa ra ý kiến ñúng đắn về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên BCTC.
Đến nay, tổng hợp từ các nghiên từ nước ngoài, có hai quan điểm chính về chất lượng kiểm toán độc lập đối với BCTC, được hình thành từ quan ñiểm thực hành, nhằm thỏa mãn ñối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán và quan điểm khoa học về kiểm toán, là khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trên các BCTC ñược kiểm toán.
1. Chất lượng kiểm toán theo quan ñiểm thỏa mãn ñối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220) và Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 220 (ISA 220), “Chất lượng kiểm toán là mức độ thoả mãn về tính khách quan và ñộ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của những ñối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán đồng thời thoả mãn về mong muốn có được những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị ñược kiểm toán với thời gian ñịnh trước và giá phí thích hợp” [1, tr.1]. Chất lượng kiểm toán ở đây được hiểu trên khía cạnh mức độ thỏa mãn của đối tượng sử dụng các BCTC. Với đặc trưng của kiểm toán BCTC DNNY trên TTCK thì đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán phổ biến nhất là các nhà đầu tư (cá nhân và tổ chức), sau đó là các cơ quan quản lý và doanh nghiệp được kiểm toán.
Quan điểm này nghiêng về thực hành kiểm toán, ñược nhìn nhận dưới góc ñộ thỏa mãn người sử dụng dịch vụ. Theo đó, để đánh giá chất lượng kiểm toán thì người ta quan tâm tới mức độ thỏa mãn về chất lượng dịch vụ kiểm toán với mức giá phí phù hợp của đối tượng sử dụng dịch vụ. Mỗi góc nhìn khác nhau, quan điểm thỏa mãn được nhìn nhận và đánh giá khác nhau :
* Thứ nhất, chất lượng kiểm toán dưới góc nhìn của công ty khách hàng
DNNY là khách hàng- ñơn vị ñược kiểm toán, đối tượng đầu tiên sử dụng dịch vụ kiểm toán. Mặc dù yêu cầu kiểm toán ñộc lập ñối với BCTC của DNNY là mang tính bắt buộc, tuy nhiên khách hàng DNNY luôn mong muốn nhận ñược ý kiến về tính trung thực, khách quan của các thông tin về BCTC đã được kiểm toán ñể cung cấp tới các NĐT trên TTCK, giúp tăng cường uy tín của chính doanh nghiệp và phục vụ cho mục đích thu hút vốn, đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, DNNY mong muốn có được sự đảm bảo từ phía nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán rằng, mọi sai sót trọng yếu trên BCTC đều được phát hiện và báo cáo cho ban lãnh đạo, từ đó, đưa ra các kiến nghị giúp khách hàng hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Do vậy, dưới góc ñộ là khách hàng, chất lượng kiểm toán được đánh giá bởi sự thỏa mãn của DNNY về tính khách quan, độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, sự chia sẻ với khách hàng của KTV/CTKT. Quan điểm thỏa mãn này không hàm ý KTV đưa ra ý kiến theo hướng “làm đẹp BCTC” có lợi cho DNNY hay lợi ích nhóm cổ đông.
Thứ hai, chất lượng kiểm toán dưới góc nhìn của bên thứ ba (NĐT, nhà quản lý, đối tác của công ty khách hàng)
Như trên đã phân tích về đặc trưng của BCTC của DNNY trên TTCK, bên thứ ba là đối tượng chịu sự rủi ro cũng như lợi ích nhiều nhất từ việc sử dụng dịch vụ kiểm toán (BCKiT), họ chủ yếu là các NĐT cá nhân, tổ chức, ngoài ra là các cơ quan quản lý nhà nước (được giao quản lý chất lượng kiểm toán) và các đối tác có lợi ích kinh tế với doanh nghiệp được kiểm toán BCTC. Dưới góc nhìn của người sử dụng BCKiT, một cuộc kiểm toán có chất lượng là họ cảm thấy thỏa mãn về độ tin cậy, tính trung thực và hợp lý của các BCTC được kiểm toán, để qua đó họ có thể đưa ra quyết định kinh tế đúng đắn (đầu tư, hợp tác) hoặc quản lý, điều hành cho phù hợp.
Tuy nhiên, nếu đánh giá chất lượng kiểm toán được hiểu theo khía cạnh thỏa mãn mong muốn của đối tượng sử dụng là rất khó để lượng hóa, vì họ (bên thứ ba) không trực tiếp chứng kiến và tham gia vào công việc của KTV. Họ chỉ cảm thấy tin cậy hơn nếu ý kiến kiểm toán được đưa ra bởi các KTV có năng lực, trình độ chuyên môn, độc lập và kinh nghiệm. Tuy nhiên, chính người sử dụng dịch vụ kiểm toán cũng khó có thể tự đánh giá các tiêu chí này từ phía KTV và công ty kiểm toán. Do vậy, các nghiên cứu về chất lượng kiểm toán cũng tìm cách đánh giá mức độ hài lòng của người sử dụng thông qua các tiêu chí trung gian, hoặc nhân tố ảnh hưởng, cụ thể:
- Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Người sử dụng sẽ cảm thấy tin cậy nếu ý kiến kiểm toán được cung cấp từ phía các KTV có năng lực, trình ñộ chuyên môn, độc lập và kinh nghiệm.
- Mức độ thoả mãn về những đóng góp, gợi ý của KTV nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu năng quản lý tại đơn vị được kiểm toán. Tiêu chí này khó được lượng hóa được bằng các sai phạm cụ thể mà KTV phát hiện được cho lãnh đạo doanh nghiệp, mà phụ thuộc vào mức độ thỏa mãn của nhà quản lý về cách làm việc chuyên nghiệp của KTV, cũng như ý kiến của KTV về BCTC nhằm đáp ứng mong ñợi của họ.
- BCKiT được phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng kiểm toán và chi phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù hợp. Tiêu chí này được ño lường bằng việc tuân thủ kế hoạch theo hợp đồng hoặc thư hẹn kiểm toán, nếu có thay đổi cần được báo trước, cũng như mức giá phí phù hợp.
Công ty kiểm toán- chủ thể thực hiện kiểm toán, thường xây dựng quy trình kiểm toán và kiểm soát nhằm yêu cầu và giúp KTV thực hiện một cuộc kiểm toán có chất lượng, đó là tuân thủ đầy đủ chuẩn mực nghề nghiệp, tuân thủ các quy trình, các thủ tục do CTKT thiết lập, đồng thời thỏa mãn khách hàng trong việc tư vấn, giúp nâng cao uy tín khách hàng. Tuy nhiên, chất lượng kiểm toán cũng phải gắn với sự thỏa mãn của CTKT về mục tiêu lợi nhuận, tức chi phí dịch vụ kiểm toán phù hợp với mức độ rủi ro kiểm toán (giảm thiểu các vụ kiện tụng, tăng cường uy tín). điều này cũng chính là áp lực đối với nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập đối với BCTC của DNNY trên TTCK trong việc cân đối nguồn lực, trong khi rủi ro kiểm toán và đòi hỏi về sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ kiểm toán luôn cao hơn so với kiểm toán BCTC của doanh nghiệp không niêm yết.
2. Chất lượng kiểm toán theo quan điểm phát hiện và báo cáo sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính
Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán đã thực hiện nghiên cứu về chất lượng kiểm toán. Theo một số công trình nghiên cứu, chất lượng kiểm toán được xác định là mức ñộ công ty kiểm toán tuân thủ theo các CMKiT trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán. Tiêu biểu cho quan ñiểm này là Krishnan và Schauer (2001), McConnell và Banks (1998), Aldhizer và các cộng sự (1995). Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng chất lượng kiểm toán được xem xét trên các khía cạnh như: Khả năng mà KTV phát hiện ra sai phạm của hệ thống kế toán của khách hàng và báo cáo các sai phạm này (DeAngelo, 1981; Watts và Zimmerman, 1983); khả năng KTV không phát hành báo cáo chấp nhận toàn phần cho các BCTC có chứa đựng những sai sót trọng yếu (Lee và các cộng sự, 1998); tính trung thực của thông tin tài chính được trình bày trên BCTC sau khi được kiểm toán (Beatty, 1989; Krinsky và Rotenberg, 1989; Davidson và Neu, 1993); khả năng KTV có thể làm giảm các sai sót và nâng cao tính trung thực của thông tin kế toán (Wallace, 1987)
Quan điểm chất lượng kiểm toán là khả năng phát hiện và báo cáo các sai sót trọng yếu ñược coi là quan điểm phổ biến của các nhà nghiên cứu về chất lượng kiểm toán. DeAngelo (1981) là nhà nghiên cứu ñầu tiên xác định chất lượng kiểm toán dựa trên khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong BCTC của công ty khách hàng. Theo đó, nhiều nhà khoa học kiểm toán dựa vào quan điểm này để phát triển các lý luận kiểm toán và chất lượng kiểm toán. Palmrose, Z. (1988) [9], Bradshaw (2001) và hầu hết các nghiên cứu khác đều thống nhất cho rằng, chất lượng kiểm toán được hiểu là khả năng KTV phát hiện và báo cáo về những sai sót trọng yếu trong việc trình bày và công bố các BCTC của các khách hàng được kiểm toán. Khả năng các KTV phát hiện được các sai phạm trọng yếu này phụ thuộc vào nhiều nhân tố, đặc biệt là năng lực nghề nghiệp của KTV, còn khả năng báo cáo sai phạm phụ thuộc vào tính độc lập của KTV (trong đó có sức ép từ phía khách hàng được kiểm toán…) (Lam and Chang, 1994; Francis, 2004)
Theo quan điểm này, nếu cuộc kiểm toán có chất lượng có nghĩa là KTV cam kết ñảm bảo về khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong các BCTC đã được kiểm toán theo đúng các qui định chuẩn mực nghề nghiệp. Theo đó, người sử dụng các BCTC đã được kiểm toán, nhất là các nhà đầu tư có thể tin tưởng vào kết quả kiểm toán do đã thỏa mãn mong muốn của họ rằng, các thông tin được kiểm toán là đáng tin cậy.
Tương tự như vậy, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm đánh giá chất lượng kiểm toán dựa trên ý kiến kiểm toán của KTV về BCTC (chất lượng BCKiT). BCKiT hay ý kiến kiểm toán của KTV độc lập đối với BCTC của các DNNY là một trong những nội dung được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong một nghiên cứu của các tác giả Chen, Su và Wang (2005), đã phân tích BCKiT BCTC của các DNNY tại Trung Quốc trong khoảng thời gian 1995- 2000, kết quả cho thấy, tỷ lệ các BCKiT trong đó KTV đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (trong thời gian nghiên cứu) chiếm tỷ lệ trên 15% tổng số DNNY, một tỷ lệ được coi là cao so với các nước có TTCK phát triển như Mỹ. Nguyên nhân đã được các tác giả phân tích, cho thấy, chất lượng kiểm toán BCTC thể hiện chất lượng ñưa ra ý kiến của KTV hay chất lượng BCKiT.
Với vai trò của kiểm toán độc lập ñối với BCTC của DNNY chủ yếu nhằm phục vụ NĐT và bảo đảm sự minh bạch của TTCK, thì chất lượng kiểm toán theo quan điểm phát hiện và báo cáo các sai sót trọng yếu trên BCTC nhận được sự đồng tình cao từ phía các nhà nghiên cứu và người sử dụng dịch vụ kiểm toán. Mặc dù chất lượng kiểm toán được các nhà nghiên cứu nhìn nhận là khả năng phát hiện và báo cáo các sai sót trọng yếu, nhưng các nghiên cứu về sự thỏa mãn của ñối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán cũng đưa đến một kết luận quan trọng, đó là, nếu khả năng phát hiện và báo cáo các sai sót trọng yếu của KTV càng cao thì mức độ thỏa mãn của người sử dụng dịch vụ kiểm toán cũng càng cao. Do đó, có thể đo lường chất lượng kiểm toán trên góc độ thỏa mãn người sử dụng trên quan điểm về khả năng phát hiện và báo cáo về các sai sót trọng yếu trên các BCTC của các KTV.
Tóm lại, kiểm toán là một loại hình cung cấp dịch vụ đặc biệt. Mặc dù chất lượng kiểm toán được nhìn nhận dưới các quan điểm khác nhau, cũng như tồn tại khoảng cách về mức độ thỏa mãn của các đối tượng quan tâm tới chất lượng kiểm toán, thì mục tiêu kiểm toán vẫn phải được đảm bảo, đó là KTV phải đưa ra ý kiến đúng về độ tin cậy của các BCTC, nghĩa là, nếu các BCTC có những sai sót làm ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của những người sử dụng, thì chúng đều đã được KTV phát hiện và báo cáo.
Đối với TTCK, bảo đảm chất lượng kiểm toán BCTC của DNNY là mối quan tâm lớn của các đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán, nhất là các NĐT. Tuy nhiên, đánh giá chất lượng kiểm toán theo mức độ thỏa mãn của đối tượng sử dụng là không hoàn toàn đơn giản, vì người sử dụng kết quả kiểm toán không thể quan sát một cách trực tiếp hoạt ñộng kiểm toán. Vì thế, để đánh giá chất lượng kiểm toán, các nhà nghiên cứu thường đánh giá khả năng phát hiện và báo cáo về các sai sót trọng yếu của các kiểm toán viên thông qua việc xác định và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến chúng. Tác động vào nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán được coi là phương pháp kiểm soát chất lượng kiểm toán từ gốc.
-----------------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài Chính (2003), Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220- Kiểm soát chất lượng hoạt ñộng kiểm toán, (Ban hành theo Quyết định số 28/2003/Qð-BTC ngày 14 tháng 3 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).
2. Bùi Thị Thủy (2014), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC của các DN niêm yết, Luận án tiến sĩ, Đại học kinh tế quốc dân
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: