Dương Thị Thanh Hiền
TÓM TẮT
Trong bối cảnh nóng lên của các vấn đề môi trường trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, việc hiểu biết sâu hơn về một công cụ thu thập, phân tích, đánh giá thông tin môi trường hiệu quả là rất cần thiết. Mục tiêu của bài viết này là sơ lược về lý thuyết hành vi dự định trong nghiên cứu về ý định áp dụng kế toán quản trị môi trường (KTQTMT) trong doanh nghiệp (DN). Với lý thuyết hành vi dự định (TPB), một khi chuỗi các lòng tin được hình thành, nó sẽ tạo ra nhận thức liên quan đến thái độ, chuẩn cảm nhận, kiểm soát cảm nhận, từ đó hình thành ý định và hành vi một cách phù hợp và hợp lý. Khi đó nhà quản trị doanh nghiệp sẽ tính toán, đo lường kết quả khi lựa chọn hành vi, họ sẽ nghĩ về những gì mà người khác muốn hoặc không muốn họ làm, đặc biệt là những gì tạo nên thuận lợi và khó khăn khi chuyển hóa hành vi, trong đó có ý định áp dụng KTQTMT.
1. Giới thiệu về lý thuyết hành vi dự định
Lý thuyết hành vi dự định hay lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behaviour - TPB) của Ajzen (1991) được phát triển từ lý thuyết hành vi hợp lý (Ajzen và Fishbein, 1975). Lý thuyết này được tạo ra do sự hạn chế của lý thuyết trước về việc cho rằng hành vi của con người là hoàn toàn do kiểm soát lý trí. Tương tự như lý thuyết hành vi hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA), nhân tố trung tâm trong lý thuyết hành vi có kế hoạch là ý định của cá nhân trong việc thực hiện một hành vi nhất định. Trong lý thuyết mới này, tác giả cho rằng ý định thực hiện hành vi sẽ chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố như thái độ đối với hành vi, tiêu chuẩn chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi.
Hình 1. Mô hình Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) (Ajzen, 1991)
Ba yếu tố quyết định cơ bản trong TPB: (1) Yếu tố cá nhân là thái độ cá nhân đối với việc đánh giá tích cực hay tiêu cực của việc thực hiện hành vi; (2) Về nhận thức áp lực xã hội của người đó, được gọi là Chuẩn chủ quan; và (3) yếu tố quyết định về sự tự nhận thức (self-efficacy) hoặc khả năng thực hiện hành vi, được gọi là Nhận thức kiểm soát hành vi. TPB cho thấy tầm quan trọng của Thái độ đối với hành vi, Chuẩn chủ quan và Nhận thức kiểm soát hành vi dẫn đến sự hình thành của một Ý định hành vi. Theo lý thuyết này, các cá nhân có cơ sở và động lực trong quá trình ra quyết định của họ và đưa ra một sự lựa chọn hợp lí giữa các giải pháp, công cụ tốt nhất để phán đoán hành vi là Ý định và hành vi được xác định bởi Ý định thực hiện hành vi (BI) của một người.
Về cơ bản, nội dung lý thuyết này giả định rằng hành vi của con người luôn tồn tại có lý do và bao giờ cũng xuất phát từ các thông tin (information) hoặc lòng tin (beliefs) của mình đối với hành vi đó. Các lòng tin này xuất phát từ rất nhiều nguồn và ngữ cảnh khác nhau, có thể từ nền giáo dục, những kinh nghiệm cá nhân, các phương tiện truyền thông.
Đầu tiên là lòng tin về việc đạt được những kết quả tốt hoặc không tốt nếu thực hiện hành vi. Chính sự mong đợi về kết quả này sẽ tạo ra thái độ (Attitude) của một người, nếu kết quả mong đợi là tích cực thì thái độ cũng đồng thuận hơn.
Thứ hai là niềm tin về việc các cá nhân hoặc nhóm quan trọng có ủng hộ hay không ủng hộ việc thực hiện một hành vi cụ thể. Niềm tin này bao gồm hai loại: niềm tin về điều nên làm (Injunctive normative beliefs) và niềm tin về điều mà nhiều người đang làm (Descriptive normative beliefs). Từ những niềm tin này, con người hình thành nên chuẩn mực cảm nhận (Perceived Norm), qua đó hình thành áp lực trong việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi đó. Nếu đa số những người quan trọng ủng hộ, con người sẽ cảm thấy áp lực thúc đẩy họ thực hiện hành vi đó.
Cuối cùng, con người cũng cảm nhận và hình thành lòng tin từ yếu tố cá nhân và môi trường, rằng những nhân tố này hoặc thúc đẩy, hoặc cản trở một hành vi nào đó. Chính lòng tin kiểm soát (control beliefs) tạo nên KSHV cảm nhận. Khi lòng tin kiểm soát này nhận dạng các nhân tố thúc đẩy nhiều hơn các nhân tố cản trở, KSHV cảm nhận sẽ ở một mức cao, qua đó hình thành hành vi.
2. Lý thuyết hành vi dự định trong nghiên cứu về ý định áp dụng kế toán quản trị môi trường
Qua việc nghiên cứu, phân tích và so sánh các mô hình lý thuyết của các học giả trước đây, tác giả cho rằng, mô hình TRA, TPB có thế mạnh trong việc nghiên cứu ý định hành vi, đặc biệt là hành vi người tiêu dùng. Ý định áp dụng - trước khi đi đến quyết định áp dụng KTQTMT hay thực hiện một sự đổi mới trong DN thì những người lãnh đạo cấp cao nhất của tổ chức phải có ý định thay đổi. Ý định thực hiện đổi mới xuất phát từ thái độ tích cực của nhà quản trị và những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện thay đổi.
Trên thực tế, Fishbein và Ajzen (2011) tin rằng mô hình lý thuyết này phù hợp để xem xét với bất kỳ hành vi nào. Họ hy vọng rằng mô hình này sẽ thúc đẩy việc tạo ra một tri thức thống nhất về dự đoán hành vi, từ đó góp phần giải quyết các vấn đề phức tạp từ hành vi của con người. Minh chứng cho điều đó là việc không khó để tìm kiếm các nghiên cứu về nhiều nhóm hành vi trong đó có vận dụng lý thuyết hành động hợp lý hay hành vi dự định. Từ hành vi liên quan đến sức khỏe (Hagger và cộng sự, 2016; Montano & Kasprzyk, 2015), khởi nghiệp (Kautonen và cộng sự, 2015; Lortie & Castogiovanni, 2015), tiêu dùng (Cooke và cộng sự, 2016; Paul và cộng sự, 2016) cho đến các hành vi liên quan đến môi trường, PTBV (Kiatkawsin & Han, 2017; Kwakye và cộng sự, 2018; Thoradeniya và cộng sự, 2015).
Nếu xét riêng trong mảng KTQTMT, tuy rất ít nhưng vẫn có nghiên cứu đề cập lý thuyết này. Chẳng hạn, Tashakor và cộng sự (2019) minh chứng về mối quan hệ của thái độ và khảo sát hành vi cảm nhận với ý định chấp nhận KTQTMT của những người nông dân trồng sợi bông. Hay khi kết hợp Mô hình chấp nhận công nghệ với TPB, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Oanh (2016) cho thấy các nhân tố liên quan đến nhận thức, áp lực có ảnh hưởng đến ý định áp dụng KTQTMT. Nên việc dùng TPB để nghiên cứu về ý định dùng KTQTMT của bộ phận kế toán là hoàn toàn phù hợp.
Là một con người, tất cả chúng ta đều có hành vi, chúng ta cần kiểm soát bất kỳ điều gì chúng ta làm trong cuộc sống của mình. Bởi vì, tự chủ là khả năng hữu ích của cá nhân để ngăn chặn, điều chỉnh và quản lý các hoạt động bên trong để không vi phạm các chuẩn mực đạo đức hiện hành nhằm thu được lợi ích lớn hơn. TPB được liên kết với lĩnh vực nhà ở sẽ rất hữu ích trong việc đo lường cách một người nhìn nhận một đối tượng là tích cực hay tiêu cực, cũng như có lợi hay bất lợi. TPB dựa trên giả định rằng con người là sinh vật có lý trí và sử dụng thông tin có thể cho họ một cách có hệ thống. Mọi người nghĩ về ý nghĩa của các hành động của họ trước khi họ quyết định có thực hiện một hành vi cụ thể hay không (ví dụ như ý định áp dụng KTQTMT). Lý thuyết hành vi có kế hoạch là một lý thuyết phân tích thái độ của người sử dụng, Chuẩn chủ quan và Nhận thức kiểm soát hành vi của người sử dụng. Thái độ của người sử dụng được kỳ vọng sẽ quyết định điều gì sẽ xảy ra với sản phẩm trong tương lai, nghĩa là người sử dụng sẵn sàng chấp nhận hoặc cảm thấy hài lòng về sản phẩm, nội dung của KTQTMT.
3. Kết luận
Nếu xét riêng ở lĩnh vực KTQTMT thì không có một lý thuyết đặc thù nào chuyên dùng để giải thích việc khuyến khích các DN áp dụng công cụ này (Qian và cộng sự, 2011). Chấp nhận rằng việc dùng lý thuyết hành vi dự định để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến áp dụng / sử dụng KTQTMT là hoàn toàn phù hợp.
Tài liệu tham khảo
1. Trình Hữu Lực (2024). Các Nhân Tố Tác Động Đến Thái Độ Và Ý Định Sử Dụng Kế Toán Quản Trị Môi Trường – Nghiên Cứu Các Doanh Nghiệp Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. Luận án tiến sĩ kinh tế. Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh.
2. Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior and human decision processes, 50(2), 179-211.
3. Ajzen, I. (2001). Nature and operation of attitudes. Annual review of psychology, 52(1), 27-58.
4. Ajzen, Icek & Fishbein, Martin. (1980). Understanding attitudes and predicting social behavior. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall
4. Fishbein, M., & Ajzen, I. (2011). Predicting and changing behavior: The reasoned action approach: Psychology Press.
5. Hagger, M. S., Chan, D. K., Protogerou, C., & Chatzisarantis, N. L. (2016). Using meta analytic path analysis to test theoretical predictions in health behavior: An illustration based on meta-analyses of the theory of planned behavior. Preventive Medicine, 89, 154-161.
6. Thoradeniya, P., Lee, J., Tan, R., & Ferreira, A. (2015). Sustainability reporting and the theory of planned behaviour. Accounting, Auditing Accountability Journal, 28(7), 1099-1137.
» Danh sách Tập tin đính kèm:
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: