CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
NCS Phan Thanh Hải
Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được Nhà nước giao, KTNN luôn luôn chú trọng đến việc không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cuộc kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ KTV Nhà nước. Muốn thực thi được các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cần phải xem xét và đánh giá được các nhân tố tác động ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Bài viết đi vào giới thiệu và phân tích các nhân tố này.
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu đã công bố, có nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến chất lượng KTNN, trong đó có các nhân tố chủ yếu sau :
Thứ nhất : Tính độc lập
Hoạt động của kiểm toán là một hoạt động độc lập. Tính độc lập trong kiểm toán được hiểu là cơ quan kiểm toán độc lập với đơn vị được kiểm toán và được bảo vệ loại trừ các ảnh hưởng từ bên ngoài trong quá trình thực hiện kiểm toán, KTNN và KTV chỉ tuân thủ pháp luật, các chuẩn mực nghiệp vụ chuyên môn, có quan điểm vô tư khi thực hiện các cuộc kiểm toán, đánh giá các kết quả và công bố báo cáo kiểm toán. Nếu không có tính độc lập thì kết quả kiểm toán không tin cậy, chức năng kiểm toán không được thực thi trong đời sống xã hội. Do vậy, tính độc lập của cơ quan kiểm toán ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm toán, là tiền đề cơ bản bảo đảm cho công tác kiểm tra tài chính công có hiệu lực và hiệu quả.
Để bảo đảm tính độc lập cho hoạt động kiểm toán thì cơ quan KTNN cũng như kiểm toán viên nhà nước phải được độc lập về địa vị pháp lý, về nhân sự và về ngân sách.
Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN và giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán là một trong những nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ chất lượng kiểm toán. Địa vị pháp lý nói chung của một đơn vị là sự thừa nhận về tổ chức, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động….trong các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy địa vị pháp lý của một đơn vị phụ thuộc vào hinh thức, nội dung của văn bản pháp luật khẳng định vai trò, vị trí của đơn vị đó.
+ Ở hầu hết các nước trên thế giới, tính độc lập của KTNN được quy định cụ thể trong luật kiểm toán hoặc được xác định ngay trong hiến pháp. Chẳng hạn ở cộng hòa Séc, điều 97 của Hiến pháp nước này có ghi rõ : “Cục kiểm toán tối cao là một cơ quan độc lập, Cục có nhiệm vụ kiểm toán việc điều hành kinh tế với tài sản Nhà nước và chấp hành Ngân sách Nhà nước….”; Ở Cộng hòa Liên bang Đức, theo điều 114 của Hiến pháp thì : “KTNN Liên bang, mà các ủy viên độc lập như thẩm phán, kiểm tra hoạt động kế toán cũng như tính kinh tế và tính tuân thủ của việc quản lý ngân sách và kinh tế….”
+ Tại Việt Nam, theo quy định của điều 13, mục 1, chương 2 của Luật KTNN địa vị pháp lý của KTNN đã được khẳng định rất rõ ràng. Đó là : “KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Độc lập về ngân sách : Cơ quan KTNN phải được độc lập về ngân sách; Độc lập về mặt ngân sách là một tiền đề cơ bản bảo đảm tính tự chủ trong công việc. Nếu KTNN bị hạn chế về tài chính sẽ dẫn đến sự hạn chế trong hoạt động kiểm toán phạm vi kiểm toán có thể bị thu hẹp, hoặc với sự lệ thuộc tài chính vào đơn vị được kiểm toán sẽ tạo ra sự ràng buộc, ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động kiểm toán và chất lượng kiểm toán.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, việc cấp phát ngân sách cho cơ quan KTNN được thể chế hóa trong luật kiểm toán nhà nước, như KTNN Vương quốc Anh “do Ủy ban Kiểm toán riêng biệt trước khi ngân sách này được trình lên Hạ nghị viện”
Về nhân sự : Bản thân cơ quan KTNN, đoàn kiểm toán, tổ kiểm toán và kiểm toán viên là chủ thể bảo đảm tính độc lập của hoạt động kiểm toán, chuyển hóa tính độc lập của hoạt động kiểm toán trong hệ thống luật pháp vào thực tiễn hoạt động kiểm toán bằng kết quả kiểm toán khách quan, chính xác, tin cậy. Đặc biệt, Tổng KTNN là người quyết định cuối cùng kế hoạch kiểm toán và những nội dung của thông báo kết quả kiểm toán ; Do vậy cơ chế bổ nhiệm Tổng KTNN có tác động quan trọng đến tính khách quan của những quyết định do họ đưa ra. Tổng KTNN phải được bảo đảm tính độc lập trong thực thi nhiệm vụ bằng quy định cụ thể trong luật việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng KTNN.
+ Ở hầu hết các nước, để tránh tình trạng cơ quan lập pháp (nếu KTNN trực thuộc Quốc hội) hoặc hành pháp (nếu KTNN trực thuộc Chính phủ) có quyền sa thải người lãnh đạo cơ quan KTNN, đã luật hóa các quy định cụ thể về thẩm quyền, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm người lãnh đạo cơ quan KTNN trong luật kiểm toán; đồng thời những luật này cũng quy định cụ thể về cơ chế tuyển dụng và sa thải kiểm toán viên để tránh việc xử lý kỷ luật kiểm toán viên không khách quan, mang tính cá nhân, tạo điều kiện cho kiểm toán viên phát huy tính độc lập trong khi thực hiện kiểm toán.
+ Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 17 - mục 2 - chương 2 - Luật KTNN thì : “Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban thường vụ quốc hội sau khi thống nhất với Thủ tướng chính phủ”
Thứ hai : Quan điểm của người lãnh đạo về KSCL kiểm toán.
Quan điểm về kiểm soát của người lãnh đạo cao cấp là yếu tố quan trọng đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của hệ thống KSCL kiểm toán. Rõ ràng, người lãnh đạo cao cấp là người quyết định ban hành các chính sách và thủ tục kiểm soát. Nếu người lãnh đạo cấp cao coi trọng công tác KSCL kiểm toán thì các chính sách, quy chế và thủ tục kiểm soát thích hợp sẽ được thiết lập, duy trì; từ đó chất lượng kiểm toán sẽ được bảo đảm. Mặt khác hoạt động KSCL kiểm toán được thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Vì vậy thái độ, năng lực của người lãnh đạo ở các cấp trực tiếp thực hiện kiểm toán và kiểm soát cũng có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng hoạt động kiểm soát ; nếu lãnh đạo các cấp coi trọng công tác kiểm soát thì các quy chế và thủ tục KSCL kiểm toán sẽ được tuân thủ một cách nghiêm túc, hoạt động kiểm toán được kiểm soát đúng đắn có hiệu quả cao và ngược lại.
Thứ ba: Cơ cấu tổ chức, cơ chế phân công, phân cấp nhiệm vụ của KTNN
Cơ cấu tổ chức của một đơn vị chính là hệ thống trách nhiệm và quyền lực đang tồn tại. Vì vậy cơ cấu tổ chức ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của đơn vị. Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải xác định rõ trách nhiệm, quyền lực và xác lập được mối quan hệ phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận. Đặc biệt đối với cơ quan KTNN, đối tượng kiểm toán rất rộng và phức tạp, liên quan đến tất cả các lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà nước của các bộ, ngành, ngân sách các địa phương, các đơn vị dự toán, các DNNN, các ban quản lý công trình XDCB; Nếu phân công, phân cấp nhiệm vụ không hợp lý sẽ tạo ra sự chồng chéo, kiểm toán viên không am hiểu chuyên sâu về nghiệp vụ dẫn tới chất lượng công việc không cao.
Một cơ cấu tổ chức trong đó cơ quan KTNN, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phạm vi của các kiểm toán chuyên ngành, KTNN khu vực, đồng thời kiểm toán chuyên ngành, KTNN khu vực phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng phòng trực thuộc theo hướng chuyên môn hóa chuyên môn hóa kiểm toán một số lĩnh vực, sẽ tạo điều kiện cho các bộ phận, các kiểm toán viên có trách nhiệm và khả năng phát huy hết năng lực của mình sẽ nâng cao được chất lượng, hiệu quả kiểm toán.
Thứ tư : Chính sách cán bộ bao gồm tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng, phát triển nghiệp vụ, chế độ đề bạt, đãi ngộ cán bộ và kiểm toán viên.
Trong các tổ chức kiểm toán, KTV luôn được coi là “tài sản” lớn nhất, có tầm quan trọng quyết định đến chất lượng hoạt động, uy tín của tổ chức đó.
Chất lượng đội ngũ KTV phụ thuộc chủ yếu vào chính sách cán bộ, đào tạo và tiền lương. Để có được đội ngũ KTV có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức đáp ứng được yêu cầu công việc kiểm toán thì cơ quan KTNN phải có hệ thống các quy chế thích hợp về tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nghiệp vụ, quy chế đề bạt kiểm toán viên, đồng thời nhà nước phải bảo đảm cho KTV có mức thu nhập thích hợp để họ yên tâm công tác, chí công vô tư khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Nếu một trong những vấn đề nêu trên trong chính sách cán bộ thực hiện không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng KTV và chất lượng kiểm toán.
Thứ năm : Các quy định về chuẩn mực, quy trình và phương pháp kiểm toán.
Hoạt động kiểm toán phải tuân thủ theo pháp luật và các quy định về nghiệp vụ kiểm toán như chuẩn mực, quy trình kiểm toán, phương pháp kiểm toán và các quy chế hoạt động của cơ quan KTNN. Các quy định này là hệ thống các nguyên tắc, yêu cầu, quy định, chỉ dẫn nghiệp vụ kiểm toán cho kiểm toán viên, là căn cứ pháp lý cho hoạt động kiểm toán, đồng thời cũng là căn cứ để KSCL kiểm toán. Do vậy, nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng kiểm toán. Hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán, phương pháp kiểm toán, các quy chế hoạt động kiểm toán đầy đủ là cơ sở để tạo nề nếp trong quản lý cũng như thực hiện kiểm toán và KSCLKT, bảo đảm chất lượng kiểm toán.
Thứ sáu :Quy chế, thủ tục và hoạt động KSCLKT.
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng của quản lý, đối với hoạt động kiểm toán thì chức năng này càng phải được coi trọng hơn nhằm ngăn chặn những biểu hiện sai trái, không khách quan, vô tư trong quá trình kiểm toán …làm ảnh hưởng lớn đến kết quả kiểm toán. INTOSAI rất đề cao việc kiểm tra, KSCL kiểm toán ở từng cấp và mỗi giai đoạn kiểm toán. Trong nhóm chuẩn mực thực hành đã ghi rõ : “Công việc của kiểm toán viên ở mỗi cấp và mỗi giai đoạn kiểm toán phải được giám sát một cách đúng đắn trong quá trình kiểm toán và các công việc được thể hiện bằng văn bản phải được một kiểm toán viên cấp cao hơn của cơ quan kiểm toán kiểm tra lại”
Để bảo đảm chất lượng kiểm toán, KTNN cần phải có quy chế công khai, cụ thể việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kiểm toán theo từng cấp, từng giai đoạn cũng như trách nhiệm của mỗi kiểm toán viên, cán bộ quản lý trong công tác kiểm toán.
Thứ bảy : Đạo đức nghề nghiệp và trình độ, năng lực của KTV
KTV là một trong những nhân tố quyết định chất lượng kiểm toán. KTV nhà nước phải có trình độ, năng lực nghiệp vụ cao, phẩm chất đạo đức tốt, tuân thủ các chuẩn mực độc lập, khách quan, chính trực, thận trọng và bảo mật, đặc biệt phải có kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực được đào tạo.
Luật Đạo đức nghề nghiệp của INTOSAI đòi hỏi cao về mặt đạo đức đối với cơ quan KTNN và kiểm toán viên. Đạo đức của cơ quan KTNN thể hiện ở sự tín nhiệm và tin cậy của người quan tâm đối với cơ quan kiểm toán và hoạt động kiểm toán. Tất cả các công việc do cơ quan KTNN thực hiện phải có quy định về đạo đức nghề nghiệp bao trùm và phải chịu sự kiểm tra của các cơ quan quốc hội, sự đánh giá của công chúng đối với tính đúng đắn và kiểm tra đối chiếu với luật nghề nghiệp.
Đối với kiểm toán viên đạo đức nghề nghiệp được thể hiện ở tính độc lập, chính trực, khách quan, thận trọng và bảo mật, trình độ và năng lực.
----------------------------
Tài liệu tham khảo
1.Quốc hội khóa 11 (2005), Luật Kiểm toán Nhà nước số 37.
2.KTNN (2005), Những nội dung cơ bản của Luật KTNN, NXB Tư pháp, Hà Nội.
3.Phan Thanh Hải (2010), Hoàn thiện công tác KSCLKT tại KTNN khu vực III, Luận văn thạc sĩ, ĐH Đà Nẵng
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: