THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Th.S Đinh Thị Thu Hiền; Th.S Nguyễn Thị Quỳnh Giao
Đại học Duy Tân, Tp Đà Nẵng
Tóm tắt
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thực tế cho thấy các NHTM ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng làm cho sức cạnh tranh giữa các ngân hang ngày càng lớn, để hoạt động bền vững và ổn định các NHTM cần có những hoạt động mang tính đánh giá về hiệu quả từng nội dung trong hoạt động của ngân hàng mình. Công cụ phân tích tài chính sẽ đóng góp phần lớn mục tiêu mà NHTM hướng đến. Bài viết nhằm đưa ra những hiện trạng của các NHTM về công tác phân tích từ đó đóng góp thêm những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn công tác phân tích.
Từ khoá: Ngân hàng thương mại, Phân tích tài chính, thực trạng…
Theo Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM: ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và đời sống xã hội của người lao động. Nền kinh tế ngày càng phát triển làm cho đời sống người lao động được cải thiện nâng cao kéo theo các hoạt động liên quan đến tiền gửi ngân hàng cũng một tăng làm ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện hơn và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế nước nhà. Có nhiều cách để phân loại Ngân hàng như: Dựa vào hình thức sở hữu thì được chia làm 5 loại (ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài); dựa vào chiến lược kinh doanh chia làm 3 loại ( Ngân hàng bán buôn, bán lẻ và hỗn hợp)… Chính vì sự phát triển không ngừng lớn mạnh của các NHTM mà công tác phân tích tài chính ngày càng được quan tâm và chú trọng. Hơn nữa, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Vì vậy, phân tích tài chính đối với NHTM ngoài những nét chung nhất của phân tích tài chính DN thông thường còn có những điểm rất khác biệt cần quan tâm nghiên cứu. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, mỗi ngày lượng tiền giao dịch tại các ngân hàng càng lớn nên việc kiểm soát đánh giá càng chặt chẽ. Các NHTM có sự cạnh tranh với nhau về mức lãi suất tiền gửi, tiền vay, huy động vốn… do đó việc phân tích nhằm đánh giá những mặt đã đạt được và những vấn đề còn hạn chế đóng vai trò hết sức quan trọng.Phân tích tài chínhlà một yêu cầu tất yếu khách quan, ra đời và phát triển từ đòi hỏi của đời sống kinh tế, từ yêu cầu phải quản lý khoa học và có hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nó là công cụ không thể thiếu được đối với các nhà quản lý kinh tế, là một hình thức biểu hiện của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước.Chứng tỏ vai trò của công cụ phân tích tài chính là rất quan trọng và có ý nghĩa lớn, giúp cho nhà quản trị ngân hàng nhìn nhận toàn diện bộ mặt của NHTM trong kỳ hoạt động đã qua một cách khách quan và tương đối trung thực. Bên cạnh đó, việc phân tích cũng giúp nhà quản trị hiểu rõ được nguyên nhân gây ra sự biến động của các chỉ tiêu, các khoản mục trên BCTC; nhân biết được các nhân tố ảnh hưởng đến các khoản mục đó để từ đó có các biện pháp đối phó thích hợp nhằm hạn chế nhược điểm và phát huy ưu điểm của bản thân NHTM, nâng cao tính cạnh tranh; giúp các nhà quản trị NHTM nhận biết và dự đoán trước những rủi ro cũng như các tiềm năng trong tương lai. Bởi rủi ro là nguy cơ lúc nào cũng có thể gặp phải và gây ra các hậu quả to lớn cho ngân hàng, do vậy việc nhận biết các rủi ro giúp nhà quản trị ngân hàng có được các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Đối lập với các rủi ro, những tiềm năng và cơ hội sẽ mang đến cho NHTM những điều kiện làm ăn vô cùng thuận lợi. Nhận biết điều đó đã là một bước đầu thắng lợi của ngân hàng trên con đường đi đến mục tiêu và phát triển.
Các nội dung phân tích cơ bản đối với NHTM
Mặc dù có sự khác nhau về đặc điểm và hoạt động với các Doanh nghiệp sản xuất, thương mại hay lĩnh vực dịch vụ nhưng nội dung phân tích cũng gần như hướng đến các nội dung phân tích của doanh nghiệp, bao gồm:
-Phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng:cấu trúc tài chính tập trung phân tích cấu trúc tài sản, cấu trúc ngồn vốn và cân bằng tài chính giữa tài sản và nguồn vốn. Trong phân tích này mục tiêu hướng đến là xác định biến động và cơ cấu của từng chỉ tiêu tài chính trong tổng tài sản và nguồn vốn, bên cạnh đó đánh giá tính tự chủ trong kinh doanh, xác định tính ổn định về nguồn tài trợ. Từ đó đánh giá khái quát được tình hình tài chính, quy mô của từng NHTM.
- Phân tíc hiệu quả hoạt động:Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, các nhà quản trị ngân hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng chú trọng đến các chỉ tiêu hiệu quả từng hoạt động sau: tổng dư nợ trên vốn huy động, hiệu quả sử dụng vốn huy động, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ suất lợi nhuận hoạt động tín dụng, lãi suất bình quân đầu vào, lãi suất bình quân đầu ra. Bên cạnh đó, sử dụng các chỉ tiêu về khả năng sinh lời như ROA (khả năng sinh lời từ tài sản), ROE (Khả năng sinh lời từ vốn chủ sở hữu), RE( Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản).. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động nhằm đánh giá được quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, lãi lỗ hay hoà vốn, là cơ sở để đưa ra những chiến lược kinh doanh cho những năm tài chính sau.
-Phân tích rủi ro ngân hàng: trong hoạt động kinh doanh luôn tồn tại rủi ro mang tính chất tiềm ẩn. Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh luôn gắn liền với đánh giá rủi ro, phân tích các chỉ tiêu nhằm kiểm soát được rủi ro trong hoạt động của NHTM, bao gồm: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thu nhập, cụ thể như: khả năng chi trả cho khách hàng, khả năng thu hồi nợ trong cho vay và đầu tư chứng khoán, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá hối đoái, sự biến động của thu nhập.
Thực trạng công tác phân tích tài chính tại các NHTM
Trong nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng hội nhập và cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra trên toàn thế giới thì hoạt động kinh doanh diễn ra tại các nước trở nên sôi động hơn bao giờ hết, tất cả các loại hình doanh nghiệp, trong đó có hoạt động của các Ngân hàng cũng theo xu thế đó. Hiện tại các Ngân hàng Nhà nước đang tiến hang cổ phần hoá hoạt động mang tính chất tự thân nên việc kinh doanh như thế nào có hiệu qủa là vấn đề mà các Nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm và coi đây là nhiệm vụ quan trọng. Chính vì lẽ đó mà công cụ phân tích tài chính trong thời kỳ này phát triển một cách mạnh mẽ. Theo báo cáo của Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết “Trong năm 2018, hệ thống Ngân hàng Việt nam có nhiều cải thiện, trong đó có các Ngân hàng thương mại”. Cũng theo báo cáo, các vấn đề cải thiện như: Huy động vốn ngoại tệ tăng mạnh năm qua. Vốn huy động ngoại tệ tăng khoảng 17% (năm 2017: 2,1%), nhưng tỷ trọng vẫn ở mức thấp, chiếm 9,9% tổng vốn huy động. Vốn huy động VND tăng khoảng 14,3%, chiếm 90,1% tổng vốn huy động; Cuối năm 2018, tỷ lệ tín dụng/huy động (LDR) bình quân của hệ thống là khoảng 87,5% (năm 2017: 87,8%); Lợi nhuận sau thuế ước tăng khoảng 40% so với năm 2017 (năm 2017 tăng 52,3%). Các chỉ tiêu sinh lời tiếp tục được cải thiện, ROA ước đạt 0,9% (năm 2017: 0,73%), ROE ước đạt 13,6% (năm 2017: 11,22%); Giá trị xử lý nợ xấu năm 2018 tăng khoảng 30% so với năm 2017…Bên cạnh đó, công tác phân tích tài chính còn được thực hiện bằng cách đánh giá hoạt động của nhiều NHTM nhưtheo Niên giám Ngân hàng trong năm 2017,Đặc san đăng tải về Báo cáo tài chính của các NHTM như NHTMCP An Bình, NHTMCP Á Châu.. thông qua số liệu trên BCTC đã được kiểm toán phản ánh về quá trình phân tích các chỉ tiêu tài chính của các NHTM nhằm đánh giá khách quan về hoạt động của từng NH, từ đó đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh, góp phần phát triển các NHTM. Trong Niên giám đã tiến hành thực hiện việc tính toán, xử lý số liệu về các nội dung như: Vốn chủ sở hữu, Tài sản, Lợi nhuận sau thuế. Đây là những nội dung mang tính chất quan trọng và được các NH tập trung vào phân tích thông qua 2 năm 2016 và 2017, quá trình phân tích cho ra một số nhận đinh như sau: Về vốn chủ sở hữu tính đến cuối năm 2017 tổng vốn chủ sở hưũ của 25 NHTM là 418.224 tỷ đồng tăng 13,8% so với năm 2016, trong đó riêng 10 NHTMCP có số vốn chủ sở hữu lớn nhất chiếm 76,7% tổng vốn chủ sở hữu của 25 NH, NH VPBank là ngân hàng có lượng vốn tăng mạnh nhất( tăng 72,88%) qua phân tích nhận thấy bên cạnh những NH có sự gia tăng mạnh về vốn vẫn có 2 NH có sự giảm sút về vốn đó là TP Bank và VietBank. Về tài sản năm 2017 tăng 19,88% so với năm 2016, nổi bật là chỉ tiêu cho vay khách hàng tiếp tục có tốc độ tang trưởng mạnh, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của Chứng khoán đầu tư. Đối với kết quả kinh doanh năm 2017 tăng với tỷ lệ 43,9% tương ứng với 66.930 tỷ đồng, nguyên nhân chính là do tốc độ tăng trung bình của Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và tổng chi phí hoạt động thấp hơn tốc độ tăng của tổng thu nhập. Chỉ số ROE (Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu) bình quân của 25 ngân hàng trong năm 2017 là 12,66%. Đây là một mức khá tốt của ngành và cải thiện hơn nhiều so với mức 9,98% của năm 2016. Hầu hết ngân hàng nằm trong Top 10 có Lãi cơ bản/CP cao nhất đều có hệ số ROE cao hơn mức bình quân này. Trong đó, dẫn đầu vẫn là Techcombank với 23,93%, tiếp theo là VPBank với 22,91%; Vietcombank với 17,33%. Chỉ số ROA (Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản) bình quân của 26 ngân hàng là 0,76%. Điểm đặc biệt về chỉ số này là có một số ngân hàng có quy mô nhỏ lọt vào Top 10 như OCB, LienvietPostbank, TPBank. Trong đó, dẫn đầu vẫn là cái tên quen thuộc Techcombank với 2,39%, tiếp đến là VPBank 2,32%, MB 1,11%.
Tóm lại: Từ thực tế về công tác phân tích tài chính tại các NHTM thấy rằng công tác phân tích đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ các NQT, đây được xem là công cụ hữu ích cho việc đánh giá và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Để quá trình phân tích có hiệu quả các NHTM đã sử dụng các BCTC sau khi kiểm toán, làm tăng tính hợp lý và chính xác về số liệu cung cấp cho các đối tượng quan tâm, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở 2 báo cáo là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kinh doanh.. thời gian phân tích thường được ấn định vào thời điểm cuối năm tài chính mang lại kết quả tổng quát cho cả quá trình kinh doanh. Những kết quả phân tích thường được trình bày tại các Báo cáo thường niên của các NH và công bố trên các phương tiện thông tin rộng rãi nhằm cung cấp thông tin cũng như thu hút được nhiều đối tượng quan tâm, mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho hoạt động của NHTM trong thời đại 4.0. Tuy nhiên có một hạn chế rất lớn là hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mà các DN trong các ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt hoạt động của ngân hàng để phân tích kết quả tài chính.
Giải pháp
Từ những phân tích, nhận định về điểm tích cực và tiêu cực trong quá trình phân tích tài chính, cần thiết đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hơn, cụ thể như sau:
-Về phía các NHTM: Cần có những quan tâm hơn nữa cho quá trình phân tích tài chính thông qua nội dung, chỉ tiêu phân tích, thời điểm phân tích và nguồn số liệu phân tích. Có thể mở rộng thêm về các chỉ tiêu phân tích như Phân tích rủi ro thông qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán; Phân tích hiệu suất sử dụng như sử dụng tài sản, sử dụng vốn chủ sở hữu… Với những NH có quy mô lớn cần thiết phải lập kế hoạch phân tích, tổ chức theo kế hoạch đề ra và đánh giá kết quả, tất cả nên tạo thành quy trình phân tích, phân tích trước, trong và sau khi kinh doanh hoặc phân tích theo các quý, tháng để số liệu đáp ứng được nhu cầu.
-Về phía Nhà quản trị: Hiện nay có nhiều NHTM vẫn chưa tập trung vào công tác phân tích tài chính, nếu có phân tích thì còn sơ sài, kết quả phân tích còn chưa hiệu quả, bên cạnh đó nhận thức của NQT trong các NH còn chưa nhận thấy tầm quan trọng trong các kết quả phân tích. Nên cần thiết phải thay đổi nhận thức từ phía các NQT để công tác phân tích tài chính được thực hiện có quy mô, bài bản và có hiệu quả cao.
-Về phía người thực hiện công tác phân tích: Hiện nay tại nhiều NHTM công tác phân tích thường được 1 bộ phận nhân viên trong phòng kế toán.. thực hiện, do đó cần thiết phải bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ phân tích cho đội ngũ thực hiện để kết quả phân tích được có ý nghĩa.
-Về nguồn số liệu:Nguồn số liệu dùng trong phân tích cần thiết đã kiểm toán hoặc các cơ quan Thuế kiểm tra nhằm tăng cường tính chính xác về mặt số liệu. Thông thường nguồn số liệu chỉ dừng lại ở phạm vi là các BCTC, cụ thể là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh chưa thật sự tập trung vào Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh, cũng như các báo cáo nội bộ trong NH. Do đó việc phân tích chỉ mới đáp ứng được 1 phần như chỉ phục vụ cho đối tượng bên ngoài doanh nghiệp mà chưa thực hiện được công dụng là phục vụ cho đối tượng bên trong. Cần thiết đa dạng về nguồn số liệu để quá trình phân tích được chi tiết, cụ thể và thực hiện mang lại hiệu quả cao.
-Về nội dung phân tích: Thực tế cho thấy hầu hết các NHTM phân tích chú trọng vào một số nội dung cơ bản như vốn, nợ phải trả, ROA, ROE.. bằng phương pháp đơn giản đó là phương pháp so sánh số tuyệt đối và số tương đối, chưa tích cực đi sâu vào phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp như phân tích ROA, ROE.. Do đó, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của quá trình phân tích cần thiết phải sử dụng thêm các nội dung phân tích như phân tích hiệu suất, phân tích RE.. sử dụng đa dạng phương pháp như phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp liên hệ cân đối để áp dụng vào phân tích.
Tài liệu tham khảo:
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: